Địa phương quyết định thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ của sở
Theo đó, đối với 17 sở đang tổ chức thống nhất trong cả nước hiện nay (theo quy định tại Nghị định 24/2014/NĐ-CP), được chia thành 3 nhóm. Nhóm thứ nhất bao gồm 4 sở: Tư pháp; Tài nguyên và Môi trường; Lao động - Thương binh và Xã hội; Y tế được tổ chức thống nhất trên phạm vi cả nước.
Nhóm thứ hai là các sở được quy định theo hướng giao thẩm quyền cho UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quyết định giữ ổn định hoặc hợp nhất (kèm theo điều chỉnh về tên gọi, chức năng), gồm 10 sở: Kế hoạch và Đầu tư; Tài chính; Giao thông vận tải; Xây dựng; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Công Thương; Giáo dục và Đào tạo; Khoa học và Công nghệ; Văn hóa, Thể thao và Du lịch (hoặc Văn hóa, Thể thao); Thông tin và Truyền thông.
Nhóm thứ ba là các sở giao thẩm quyền cho UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quyết định giữ ổn định hoặc thực hiện thí điểm hợp nhất theo Nghị quyết 18-NQ/TW (một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả) và Nghị quyết số 56/2017/QH14 (về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả), gồm: Sở Nội vụ (thí điểm hợp nhất với Ban Tổ chức thành Sở Tổ chức - Nội vụ); Thanh tra tỉnh (thí điểm hợp nhất với Ủy ban Kiểm tra thành Kiểm tra - Thanh tra tỉnh); Văn phòng UBND cấp tỉnh (thí điểm hợp nhất với Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Văn phòng HĐND cấp tỉnh thành Văn phòng địa phương cấp tỉnh).
Đối với 4 sở đặc thù, chuyên ngành, không được tổ chức thống nhất giữa các địa phương gồm Sở Quy hoạch - Kiến trúc thuộc UBND Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, 3 sở do Chính phủ quy định tiêu chí thành lập (Ban Dân tộc, Sở Ngoại vụ, Sở Du lịch), Bộ Nội vụ đề xuất giao UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quyết định giữ ổn định hoặc sáp nhập; thành lập hoặc không thành lập (kể cả khi đáp ứng đủ các tiêu chí thành lập).
Trên cơ sở phân nhóm các sở, dự thảo Nghị định quy định theo hướng giao cho địa phương quyết định thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bên trong của từng sở, bảo đảm phù hợp với quy định khung của Chính phủ, quy định của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của bộ quản lý ngành về nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực ở địa phương. Đối với các sở thực hiện thí điểm hợp nhất thì thực hiện chức năng theo quy định của Đảng và pháp luật.
Lý giải về việc sáp nhập các sở
Theo lý giải của Bộ Nội vụ, cơ sở của việc quy định 4 sở: Tư pháp; Tài nguyên và Môi trường; Lao động - Thương binh và Xã hội; Y tế được tổ chức thống nhất là nhằm bảo đảm tính kế thừa, ổn định đối với các sở đã được sắp xếp, tổ chức theo mô hình tổ chức sở quản lý đa ngành, đa lĩnh vực và các sở có chuyên ngành chuyên sâu được quy định và đang thực hiện tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP.
Hợp nhất Sở Kế hoạch và Đầu tư với Sở Tài chính vì chức năng, nhiệm vụ của 2 sở có mối quan hệ liên thông với nhau, tạo điều kiện cho việc tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước trong lĩnh vực kế hoạch, đầu tư, tài chính, ngân sách và một số lĩnh vực liên quan được hiệu quả hơn, bảo đảm việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của địa phương được gắn với khả năng cân đối nguồn lực về tài chính, ngân sách, hạn chế tối đa sự giao thoa về nhiệm vụ giữa 2 sở này kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ Chính phủ. Sau hợp nhất, tên gọi của các sở này là Sở Tài chính - Kế hoạch.
Hợp nhất Sở Giao thông vận tải với Sở Xây dựng (thành Sở Giao thông vận tải - Xây dựng) vì việc hình thành và phát triển các không gian đô thị hiện đại không thể tách rời giữa quy hoạch xây dựng đô thị với quy hoạch hạ tầng giao thông, nhất là khi Chính phủ đang chỉ đạo đẩy mạnh triển khai các dự án theo các hình thức đầu tư công - tư (BTO, BOT, BT, PPP..) luôn đòi hỏi có sự gắn kết giữa quy hoạch phát triển giao thông với đô thị. Việc hình thành một cơ quan quản lý thống nhất hai lĩnh vực này sẽ bảo đảm nâng cao tính hiệu quả, khắc phục những bất cập, chồng chéo, thiếu đồng bộ trong quản lý hạ tầng đô thị và hạ tầng giao thông.
Đối với hợp nhất Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Sở Công Thương thành Sở Công nghiệp, Nông nghiệp và Thương mại, Bộ Nội vụ cho rằng tại một số tỉnh, thành phố, qua quá trình đô thị hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng về công nghiệp và dịch vụ, yêu cầu quản lý nhà nước về nông nghiệp và phát triển nông thôn so với các ngành, lĩnh vực khác là không lớn, nên không cần thiết thành lập một sở chuyên trách tham mưu về lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Hợp nhất Sở Thông tin và Truyền thông với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (hoặc Sở Văn hóa, Thể thao) thành Sở Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao vì qua thực tiễn cho thấy, tại một số tỉnh có địa bàn nhỏ, dân số ít, yêu cầu quản lý nhà nước về một số lĩnh vực như báo chí, xuất bản, in và phát hành; bưu chính; viễn thông… không lớn, không cần thiết duy trì một sở tham mưu chuyên trách.
Bộ Nội vụ cũng giải thích hợp nhất Sở Khoa học và Công nghệ với Sở Giáo dục và Đào tạo thành Sở Giáo dục và Khoa học, Công nghệ vì lĩnh vực khoa học và công nghệ có liên quan mật thiết với việc nghiên cứu và ứng dụng, tương đồng với lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói chung và đến một thời điểm thích hợp, cần thiết phải hợp nhất, để thống nhất giao cho một cơ quan tham mưu quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ.
Đề xuất sáp nhập, thành lập hoặc không thành lập Sở Ngoại vụ, Ban Dân tộc, Sở Du lịch và Sở Quy hoạch - Kiến trúc (ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh), Bộ Nội vụ cho rằng để tiếp tục đẩy mạnh trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương cấp tỉnh trong việc sắp xếp, thu gọn đầu mối tổ chức cơ quan chuyên môn cấp tỉnh. Trường hợp không thành lập các sở này thì giao Văn phòng UBND cấp tỉnh (hoặc Văn phòng chính quyền địa phương cấp tỉnh) thực hiện chức năng tham mưu quản lý nhà nước về lĩnh vực ngoại vụ và dân tộc; giao Sở Văn hóa, Thể thao (hoặc Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao) thực hiện chức năng, nhiệm vụ tham mưu quản lý nhà nước về du lịch và đổi tên sở này thành Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch. Đối với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, trường hợp không thành lập Sở Quy hoạch - Kiến trúc thì sáp nhập Sở này vào Sở Xây dựng (hoặc Sở Giao thông vận tải - Xây dựng).
Ba phương án khung số lượng sở
Bộ Nội vụ đề xuất 3 phương án về khung số lượng sở. Trong đó, phương án 1 phân loại theo đơn vị hành chính. Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có không quá 20 sở. Đơn vị hành chính cấp tỉnh loại I, II, III có số lượng sở tương đương là 19, 18 và 17. Theo phương án này, sẽ giảm tối thiểu 46 sở tại 34 tỉnh, thành phố; trong đó có 22 tỉnh, thành phố cần giảm tối thiểu 1 sở, 12 tỉnh cần giảm tối thiểu 2 sở.
Phương án 1 bảo đảm sự ổn định các tổ chức sở hiện có, không có nhiều sự xáo trộn; tuy nhiên, có 4 tỉnh có số lượng sở hiện tại ít hơn với quy định khung của Chính phủ, có 20 tỉnh có số lượng sở bằng với số sở theo quy định khung của Chính phủ; theo đó, việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn theo phương án 1 chưa thực sự bảo đảm yêu cầu tinh gọn tổ chức cơ quan chuyên môn ở địa phương.
Phương án 2, Bộ Nội vụ đề xuất khung các sở với mức độ tinh gọn cao hơn. Theo đó, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có không quá 20 sở. Đơn vị hành chính cấp tỉnh loại I có không quá 18 sở, loại II và III có không quá 17 sở.
Theo phương án này sẽ giảm tối thiểu 88 sở tại 54 tỉnh, thành phố. Trong đó, 24 tỉnh, thành phố cần giảm tối thiểu 1 sở. 23 tỉnh, thành phố cần giảm tối thiểu 2 sở. 6 tỉnh cần giảm tối thiểu 3 sở.
Bộ Nội vụ nhận định phương án 2 đạt được yêu cầu tinh gọn bộ máy vì có 53/63 tỉnh, thành phố cần thực hiện việc sắp xếp, tinh gọn để bảo đảm quy định khung của Chính phủ. Tuy nhiên, sẽ có nhiều sự xáo trộn về tổ chức, nhân sự trong việc sắp xếp các sở theo quy định khung của Chính phủ.
Hai phương án trên bảo đảm được sự thống nhất về tên gọi và phân công chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực của các sở và trao quyền chủ động cho địa phương trong việc quyết định cơ cấu tổ chức của các sở, đáp ứng yêu cầu sắp xếp tổ chức các sở tinh gọn hơn, hạn chế sự cào bằng về số lượng tổ chức các sở giữa các đơn vị hành chính cấp tỉnh. Tuy nhiên, cần sửa đổi thẩm quyền của bộ quản lý ngành, lĩnh vực trong việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của sở.
Phương án 3 được Bộ Nội vụ đưa ra là quy định tổng số sở sau khi thực hiện việc hợp nhất (thí điểm hợp nhất), sáp nhập, thành lập hoặc không thành lập bảo đảm không vượt quá số lượng sở hiện có. Như vậy bảo đảm được sự thống nhất về tên gọi, phân công chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực của các sở và trao quyền chủ động cho địa phương trong việc quyết định cơ cấu tổ chức của các sở như phương án 1 và 2. Song, hạn chế của phương án này là địa phương không chủ động và thực hiện quyết liệt thì sẽ không tinh giảm được đầu mối tổ chức bộ máy cơ quan chuyên môn theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW và cũng cần sửa đổi thẩm quyền của Bộ quản lý ngành, lĩnh vực trong việc hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của sở theo quy định.
Trong các phương án nêu trên, để bảo đảm thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy có lộ trình, tránh xáo trộn lớn, Bộ Nội vụ đề xuất chọn phương án 1.
Quy định rõ số lượng cấp phó
Tại dự thảo Nghị định, Bộ Nội vụ cũng đề xuất số lượng Phó Giám đốc sở theo hai hướng: Căn cứ đầu mối tổ chức bên trong của sở hoặc trên cơ sở tính bình quân. Nếu dựa vào số đầu mối tổ chức bên trong, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, sở có từ 6 đầu mối tổ chức trở lên, có không quá 4, dưới 6 đầu mối có không quá 3 Phó Giám đốc. Các tỉnh, thành phố còn lại, sở có từ 6 đầu mối tổ chức trở lên, có không quá 3, dưới 6 đầu mối tổ chức có không quá 2 Phó Giám đốc. Nếu trên cơ sở tính bình quân thì mỗi sở thuộc Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh bình quân có không quá 3,5 Phó Giám đốc; mỗi sở thuộc tỉnh, thành phố còn lại có không quá 3 Phó Giám đốc. Bộ Nội vụ nghiêng về phương án 1.
Số lượng cấp phó các tổ chức bên trong của sở được quy định theo hướng với chi cục thuộc sở có từ 3 phòng trở xuống được bố trí 1 Phó Chi cục trưởng; không có phòng hoặc có từ 4 phòng và tương đương trở lên có không quá 2.
Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc sở có từ đủ biên chế tối thiểu theo quy định đến 9 biên chế đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt; đến 8 biên chế đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại I; đến 7 biên chế đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại II và loại III được bố trí 1 Phó Trưởng phòng. Phòng có từ 10 - 14 biên chế đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt; từ 9 - 14 biên chế đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại I; từ 8 - 14 biên chế đối với đơn vị hành chính cấp tỉnh loại II và loại III được bố trí không quá 2 Phó Trưởng phòng. Phòng có từ 15 biên chế trở lên được bố trí không quá 3 Phó Trưởng phòng.