Hà Giang là mảnh đất biên giới cực Bắc của Tổ quốc, nơi có Cột cờ Lũng Cú hiên ngang và cao nguyên đá Đồng Văn với những dãy núi đá tai mèo trập trùng. Nơi đây còn lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc của đồng bào 22 dân tộc, trong đó, người Mông chiếm đông nhất.
Nhà trình tường truyền thống của đồng bào Mông Hà Giang. |
Bởi vậy, nói đến văn hóa của các dân tộc trên vùng cao nguyên đá, trước hết phải nói đến văn hóa người Mông, đặc biệt là kiến trúc ngôi nhà truyền thống, bởi đây là thước đo không chỉ đánh giá sự giàu có, mà còn là căn cứ để xác định đâu là người Mông cư trú lâu nhất vùng.
Theo ông Hùng Đình Quý, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Giang, người gắn bó suốt đời với các hoạt động nghiên cứu về dân tộc Mông cho biết: Dân tộc Mông ở Hà Giang có gần 200.000 người với 2 nhóm chính là Mông trắng và Mông hoa, chiếm 31,5% dân số toàn tỉnh; sinh sống đông nhất ở 3 huyện Đồng Văn, Mèo Vạc và Quản Bạ. Với môi trường sống ở trên các sườn núi cao, khí hậu lạnh khắc nghiệt, đã ảnh hưởng sâu sắc đến kiến trúc nhà ở của dân tộc này. Từ quan niệm sống, môi trường đã hình thành nét độc đáo trong văn hóa kiến trúc của ngôi nhà trình, với tường bằng đất, lợp ngói hay tranh là phù hợp nhất, với ưu điểm vừa giữ ấm về mùa đông, mát mẻ trong mùa hè và lại có thể chống được kẻ gian, thú dữ.
Ngôi nhà trình tường hàng trăm năm tuổi ở Đồng Văn. |
Nét độc đáo trong kiến trúc ngôi nhà của người Mông tương đối thống nhất theo một khuôn mẫu, dù to hay nhỏ đều phải có 3 gian 2 cửa (gồm một cửa chính, một cửa phụ và tối thiểu là 2 cửa sổ). Ngôi nhà có thể có một hoặc 2 chái nhà, nhưng đều không liên quan trực tiếp đến 3 gian nhà chính. Ba gian nhà chính của người Mông được sắp xếp như sau: Gian bên trái dùng để đặt bếp nấu nướng và buồng ngủ của vợ chồng gia chủ; gian bên phải dùng để đặt bếp sưởi và giường khách; gian giữa thường rộng hơn 2 gian bên và là gian để bàn thờ tổ tiên, đồng thời cũng là nơi tiếp khách, ăn uống của gia đình.
Trong gia đình người Mông, phòng ngủ của vợ chồng, con cái được bố trí riêng. Người Mông thường ngủ bằng phản gỗ hoặc giát bằng tre mai đập giập. Tập tục của người Mông rất khắt khe, nơi ngủ của con, em dâu thì bố, anh chồng không được vào và ngược lại con, em dâu không được phép vào nơi ngủ của bố chồng, anh chồng. Nhà của người Mông bao giờ cũng có sàn gác để cất giữ đồ đạc, lương thực, thực phẩm; ngô, lúa, đậu tương khi thu hoạch về được cất lên gác, khói bếp sẽ hạn chế được sâu mọt, ẩm mốc. Ngoài ra, sàn gác còn có thể làm nơi ngủ mỗi khi nhà đông khách. Điều đặc biệt là đàn bà, con gái không được phép ngủ trên gác. Bởi thế kể cả khi cha mẹ chồng, con trai trong nhà đi vắng thì con dâu cũng không được lên gác; nếu muốn lấy vật gì trên gác cũng không được trèo thẳng lên mà chỉ được phép đứng ở bậc thang rồi lấy que khều.
Trong văn hóa truyền thống của dân tộc Mông, các ngôi nhà không được dính sát vào nhau, kể cả anh em ruột thịt. Người Mông quan niệm khi làm ma tươi cho người chết, người ta có tục lệ thổi khèn, kèn, tù và, vác nỏ đi vòng quanh nhà 3 lần đi, 5 lượt về (đối với nam giới), 5 lượt đi và 7 lượt về (đối với nữ giới) để xua đuổi các loại ma đói, ma yểu khỏi về quấy rầy người chết. Chính vì vậy, người Mông cho rằng nếu làm nhà dính vào nhau, khi nhà có tang ma sẽ không tiến hành được nghi lễ trên thì coi như đám ma ấy không làm đúng luật lệ tổ tiên đã quy định, không đảm bảo cho người chết được yên ổn trong cõi vĩnh hằng.
Đồng bào dân tộc Mông rất chú trọng việc chọn đất làm nhà. Sau khi chọn được đất tốt, đất lành, người ta tiến hành san nền, kê móng, trình tường nhà. Công việc trình tường nhà được bà con dân tộc Mông tiến hành khá công phu với một số quy định như người lạ không được vào khu vực nhà đang trình tường, nhất là phụ nữ. Để trình tường nhà, bà con phải làm những chiếc khuôn gỗ có chiều dài 1,5 m, rộng 0,45 m - 0,5 m. Khi trình tường, người ta đổ đất đầy khuôn gỗ, dùng những chiếc vồ nện chặt đất. Đất dùng để trình tường phải được loại bỏ sạch rễ cây, đá to, cỏ rác. Khi tiến hành trình tường, người ta huy động vài chục thanh niên trai tráng trong làng đến giúp; cứ như vậy khuôn nọ nối tiếp khuôn kia cho đến khi hoàn thành. Sau khi trình tường xong, gia chủ sẽ tiến hành chọn ngày tốt, hợp với tuổi chủ nhà mới được vào rừng chặt hạ cây cột cái, cây đòn nóc.
Trước khi chặt cây phải thắp 3 nén hương; tiếp đó, cắm 3 tờ giấy bản vào gốc cây khấn thần rừng, thần cây cho xin cây gỗ về làm nhà. Họ quan niệm rằng làm như thế thần cây, thần rừng không quở mắng và nhà cửa mới yên vui, mọi người khỏe mạnh, ăn nên làm ra, gia đình hạnh phúc. Chọn được ngày chặt cây, cây cột cái được gia chủ chặt xong đem thẳng từ rừng về, không được đặt xuống đất mà phải đưa lên nóc ngay. Đối với 2 cây cột cái ở gian giữa và cây cái nóc (hay còn gọi là đòn nóc), người Mông coi 2 cây cột cái là cột chủ đạo trong nhà thể hiện sự ngay thẳng, cứng cáp, vững vàng của chủ nhà, nên cây cột phải là một cây rừng không bị sâu, thối, cụt ngọn. Hai cây cột này còn có một vị trí rất quan trọng trong đời sống tâm linh của người Mông. Cửa chính ra vào nhà của người Mông cũng phải chọn gỗ tốt để làm. Cửa bao giờ cũng được mở vào phía trong. Cửa không cài bằng then sắt mà phải cài bằng then gỗ. Người Mông quan niệm không sử dụng bản lề, then cửa bằng sắt là vì cửa mở ra đóng vào được xem là lòng bụng con người, nếu dùng các vật dụng bằng sắt thì sẽ lạnh, nên tất cả các ngôi nhà của người Mông luôn sử dụng sự mềm mại của cây rừng.
Một nét độc đáo nữa trong cấu trúc nhà truyền thống của người Mông là tất cả các ngôi nhà thường được xếp đá xung quanh vô cùng chắc chắn. Để có được hàng rào đá hoàn chỉnh bao quanh ngôi nhà và mảnh đất rộng chừng 200 - 300 m2, gia chủ cùng với người thân phải mất hàng tháng trời nhặt những mảnh đá vỡ quanh nhà về xếp thành hàng rào đá. Những viên đá có kích cỡ khác nhau với nhiều góc cạnh được xếp lèn vào nhau, tạo nên bức tường bao kiên cố, phẳng mà không cần sử dụng chất kết dính nào. Chiếc cổng gỗ có mái và dán giấy đỏ xen giữa bờ rào đá trước nhà, được người Mông trang điểm tạo nên vẻ ấm cúng giữa cái lạnh mùa đông ở cao nguyên đá.
Bài và ảnh: Minh Tâm