“Chúng tôi đã có tiêu chí riêng của mình, cách tổ chức khảo sát của mình, để “tổng kiểm kê” các di sản văn hóa văn nghệ dân gian của 46/54 dân tộc Việt Nam”, GS Tô Ngọc Thanh (ảnh), Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam nói. Trên tay ông là tập sách dày gần 300 trang bìa màu nâu xám nhạt - tập 1 của bộ sách thống kê di sản văn hóa các dân tộc.
Tầm nhìn của Hội Văn nghệ dân gian
“Tôi luôn kính trọng thầy tôi- GS Tô Ngọc Thanh bởi tầm nhìn, sự hiểu biết về những vấn đề của di sản văn hóa dân tộc”, nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền trầm ngâm. Ông Hiền là người đã ghi lại thang âm của cồng chiêng Tây Nguyên, góp phần không nhỏ vào việc làm hồ sơ đưa không gian cồng chiêng trở thành di sản văn hóa thế giới. Ông cũng cho biết, cách thức ghi lại thang âm này chính là do GS Tô Ngọc Thanh gợi ý cho ông để tôn vinh âm nhạc cồng chiêng.
Không dễ gì có được tầm nhìn, sự am hiểu về di sản văn hóa như GS Tô Ngọc Thanh. Thời gian ông sống với người dân các dân tộc thiểu số chạy dài suốt những năm tháng tuổi trẻ, thời trung niên và bây giờ ngay cả khi đã ở tuổi xưa nay hiếm. Giáo sư chính là người đã làm việc với tư cách chuyên gia của UNESCO từ những năm 90 của thế kỷ trước. Chính vì thế, ông hiểu rất rõ sự mong manh của các di sản văn hóa dân gian trước sức tấn công của đời sống đương đại, và dòng chảy nặng trĩu của thời gian.
“Ngay từ những năm 2000, chúng tôi đã nhận thấy kho di sản dân gian đứng trước nguy cơ lớn. Một số không thể cứu vãn được nữa. Số khác tuy vẫn còn nhưng đã mai một đáng kể”, GS nói giọng trầm ngâm. “Những nghệ nhân từng thực hành và lưu giữ di sản ngày một già đi. Nhiều người trong số họ đã mất. Những người còn sống, mắt đã mờ, chân đã chậm ở độ tuổi 70 - 80 rồi. Trí nhớ của họ giảm sút, khả năng truyền dạy cũng không còn được như xưa”.
Bởi vậy, Hội Văn nghệ dân gian, đã đưa ra kế hoạch mang tên “Tầm nhìn 2010”. “Chúng tôi đã phát động toàn thể 1.200 hội viên trong 78 chi hội để điều tra di sản văn hóa. Đó là các chi hội nằm ở tất cả các tỉnh, thành trong nước, cộng với một số chi hội tại các trường, viện nghiên cứu. Tất cả chỉ để trả lời câu hỏi tại địa phương mình có di sản nào, hiện trạng ra sao?”, ông nói.
Bên cạnh đó, kế hoạch “Tầm nhìn 2010” còn cùng nhân dân khôi phục hơn 100 di sản. Hội đã phong tặng 150 nghệ nhân dân gian.“Chúng tôi đã phân loại thành nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa như: Văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội, văn hóa sinh hoạt, văn hóa tâm linh, văn hóa nghệ thuật... Kết quả là 46/ 54 dân tộc đã được kiểm kê xong. Tám dân tộc còn lại là các dân tộc có dân số ít, lại cư trú ở địa bàn quá hẻo lánh, nhưng chúng tôi sẽ làm trong những năm tới. Kết quả tổng kiêm kê này đã được chúng tôi công bố trong 2 tập sách để tiện việc tra cứu”, GS Tô Ngọc Thanh cho biết.
Sờ tận tay vào di sản
“Liệt kê thông thường một di sản chỉ để đưa ra con số không khó. Cái khó và cũng là yêu cầu của Hội là phải mô tả được thực trạng di sản”, GS Thanh vừa nói vừa chỉ tay vào những cột thông số di sản sau khi thống kê. Ứng với mỗi di sản là 12 cột thông tin, trả lời 8 vấn đề lớn. Đó là: Di sản của dân tộc nào, tên loại của di sản, nơi tồn tại di sản, phạm vi tác động và thời điểm diễn ra, người lưu giữ, thực trạng, tình hình nghiên cứu sưu tầm, cuối cùng là kiến nghị phương pháp bảo tồn.
“Qua công tác kiểm kê này, chúng tôi đã nắm được và có kế họach sưu tầm và bảo tồn về cơ bản toàn bộ các di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc VN, phát hiện các nghệ nhân đang sống để tổ chức cho họ truyền dạy lại con cháu...”, ông cho biết.
Chẳng hạn, với văn hóa làng của người Bahnar Kriêm ở Bình Định, kiểm kê chỉ ra rất rõ di sản này tồn tại ở các làng xã của huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Thời điểm diễn ra hàng ngày. Người lưu giữ là các già làng. Thực trạng vẫn còn lưu giữ được ít nhiều song đang mai một dần. Hội viên Yang Danh hoàn thành sưu tầm và viết công trình một số mặt của khối di sản này vào cuối năm 2007 với tài trợ kinh phí thực hiện của Hội. Kiến nghị cần bảo tồn và phát huy di sản.
“Nếu chúng ta cứ nói chung chung về di sản mà không nói đến nghệ nhân thì không đủ. Phải điều tra cụ thể để tổng kiểm kê các di sản có được, phải biết được bao nhiêu vị nghệ nhân, tuổi tác thế nào, tài năng ra làm sao, còn lại là bao nhiêu? Nhưng tổng kiểm kê không chỉ để biết mình còn bao nhiêu di sản, bao nhiêu nghệ nhân... Chúng ta còn cần biết dân tộc nào có những di sản gì và cần khôi phục cái gì trước, cái gì sau”.
Chẳng hạn, với nghề thủ công truyền thống gồm gốm, chạm bạc, thêu thùa của người Bố Y, Hội kiến nghị rất rõ cần thiết phải duy trì trong cộng đồng. Di sản tồn tại ở làng xã của người Bố Y tỉnh Hà Giang với quy mô làng xã. Người còn nắm giữ di sản là cụ Ngũ Khởi Phối nay đã 77 tuổi. Di sản này hiện bị mai một do không có sự truyền lại.