Dạo này, lão Khoa có nhiều thay đổi. Những đổi thay từ ngoại cảnh tác động đến lão và những đổi thay trong cách lão nhìn nhận cuộc đời. Bởi thế mà dạo này, lão giữ mục Blog tòa soạn cho báo điện tử VOV và cả trang Blog riêng của lão.
Blog lão có lượt truy cập nhiều hơn vài tờ báo điện tử nhỏ, comment thì nhiều vô kể, và ngạc nhiên hơn, là lão có đủ thời gian để trả lời tất cả mọi cái comment lớn nhỏ của bạn hữu xa gần, của người quen và của cả người không quen. Những cái comment chân chất, dí dỏm và đầy trách nhiệm của những người quan tâm đến những điều lão Khoa suy nghĩ, viết ra, không ngại ngần cho đăng tải và cả những lời đáp trả đầy nhiệt tình, không né tránh, nhìn thẳng, nhìn sâu vào từng lớp lang của sự thật (có thể khiến ai đó mất lòng), điều mà một số thời gian trước nay, người ta có thể nghe đâu đó trong các cuộc luận bàn, song chưa bao giờ được thấy bằng bút tích của lão nhà thơ vốn được coi là khôn lỏi nhất nhì làng thơ Việt Nam.
Lão bảo, cũng may, thời gian gần đây, khi không phải làm công tác chuyên môn có tính sự vụ, lão mới có thời gian dành cho việc viết lách. Bây giờ, một tuần lão có ít nhất 4 tờ báo đặt hàng thường xuyên phải… trả nợ. Mà tính lão, kể cả thơ, chứ không nói gì đến những bài báo, phải nước đến chân mới nhảy. Báo người ta bắt đầu lên khuôn rồi, lão mới gõ vi tính. Và dù bài ngắn bài dài thế nào, cũng nhoáng cái là xong, đúng tiêu chí, đủ độ hay, hấp dẫn và hầu như không phải sửa chữa. Bởi thế, lão bảo, lão hoàn toàn khâm phục những người có những bài báo… để dành dùng dần khi cần thiết.
Nói đến đây, lão nhớ lại, hình như phong cách này đã được định hình từ ngày lão bắt đầu tập tọe làm thơ. Thuở cậu bé Trần Đăng Khoa bắt đầu có tên tuổi, người ta thậm chí hồ nghi cậu “thuổng” thơ của người anh trai là nhà thơ Trần Nhuận Minh, dù thời gian ấy, nhà thơ Trần Nhuận Minh không ở nhà mà dạy học ở Quảng Ninh (từ năm 1962), nên để xác minh thực lực của cậu Khoa, người ta lặn lội về tận Hải Dương để “ra đề” cho cậu làm thơ tại trận: Em hãy làm bài thơ về cây trầu? Em hãy làm bài thơ về hạt gạo? Em hãy làm bài thơ về mẹ?... Và ngay tức khắc, cậu Khoa có thơ.
Trong số những người sát hạch ấy, có nhà thơ Định Hải, nhà báo Hồ Xuân Sơn, nhà thơ Hồ Thiện Ngôn. Có lần, bác Lê Hào, Trưởng ty Giáo dục Hải Dương đến thăm Trần Đăng Khoa, thấy cả nhà buồn bã như có tang, hỏi ra mới biết, con chó yêu quý đã sợ bom mà bỏ nhà đi mất. Thấy vậy, bác Lê Hào bèn thử tài cậu Khoa: “Cháu hãy làm thơ về việc bị mất chó!”. Vậy là bài thơ “Sao không về hả chó?” ra đời. Sau đó bác Hào gửi cho báo, báo Văn nghệ in, biên tập viên đổi thành “Sao không về Vàng ơi”. Hay hơn hẳn. Dù không đúng sự thật. Sự thật con chó nhà cậu Khoa là chó đen (chó mực). Từ đầu đến đuôi chẳng có một dúm lông vàng nào.
Chính được thử tài từ năm 8 tuổi nên Trần Đăng Khoa dần quen với khả năng ứng chiến của một người viết chuyên nghiệp. Khoa bảo, nếu bây giờ, “nhốt” các nhà thơ vào một phòng ra đề thơ làm ngay tại chỗ trong vòng 15 phút thì chắc chắn: “Tôi sẽ là nhà vô địch” - Trần Đăng Khoa nói chắc như đinh đóng cột.
Nhân nhắc về nhà thơ Trần Nhuận Minh, tôi hỏi lão Khoa: “Anh có thường chuyện trò với anh trai mình và anh nhận xét thế nào về sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Trần Nhuận Minh?”, lão Khoa cười: “Bác Minh bật lên được từ thời đổi mới. Nếu không có thời đổi mới, chắc bác Minh mãi chìm trong đám đông. Trước đây, nhiều người bảo: Trần Nhuận Minh là anh Trần Đăng Khoa. Nhưng bây giờ, nhiều người bảo: Trần Đăng Khoa là em Trần Nhuận Minh. Có thể sau này, người ta có thể quên Trần Đăng Khoa nhưng không quên Trần Nhuận Minh được. Bác Minh phải biết ơn thời đổi mới”.
Tôi thì cho rằng, sự nổi tiếng quá sớm của Trần Đăng Khoa, sự khôn khéo trong từng đường đi nước bước với thời cuộc, cả sự láu lỉnh của một người biết hóa giải những điều hên - xui trong cuộc sống để nhích dần từng bước vững chãi, chắc chắn và quyết đoán trên con đường công danh, sự nghiệp đã khiến Trần Đăng Khoa “được” nhiều hơn người anh trai của mình. Dù có lần, để “bênh” ông em trai, và cũng để lý giải cho sự “chín muộn” của mình, nhà thơ Trần Nhuận Minh đã lý giải: “Mâm cỗ đóng 6, thời bao cấp đói kém, còn bao người chưa đến lượt ăn, làm sao hai anh em ngồi cùng một mâm được. Mình cũng phải tự biết điều chứ. Thằng em được ăn, đã là may rồi, thằng anh phải vui vẻ lánh xa, rồi phấn khởi ra về thổi lấy cơm mà chén chứ. Đấy là sự công bằng”. Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi sinh thời có đăng báo Văn nghệ một câu rất vui: “Hai anh em nhà ấy, lọt sàng xuống nia, có đi đâu mà thiệt”.
Bây giờ thì nhà thơ Trần Đăng Khoa không còn quan tâm quá nhiều đến việc thiên hạ bàn thế nào về mình, về gia đình mình hoặc lão cũng đã quá quen với việc ở đâu lão cũng là tâm điểm của sự chú ý, đến nỗi có lần lão phải kêu lên rằng: “Sướng nhất là được lẫn vào đám đông”.
Có người tiếc cho một thời vàng son của lão đã đi qua và lão đã vội hướng sang một con đường khác, có thể nhiều danh vọng, tiền tài, một bước lên xe ô tô sang trọng đưa đón nhưng đổi lại, lão làm mất đi chút ít niềm hy vọng trong lòng độc giả về một người có thể góp phần ảnh hưởng không chỉ là thời của thơ thần đồng mà có thể cả một chặng đường dài đối với văn chương Việt.
Lão chẳng bàn về việc này, chỉ tủm tỉm: “Nếu thím còn quý lão thì thím cứ chờ đấy. Lão đã buông bút đâu. Đừng tính những bài báo vặt viết kiếm tiền nuôi con. Thêm nữa, cũng chẳng nên quá ham hố, cuộc đời con người đều nằm trong vòng xoay của tạo hóa, và dù anh ta có giỏi đến mấy thì vẫn không thể thoát khỏi số phận đã được định đoạt. Cũng như lão, giờ đây ngẫm lại mới thấy đời mình chỉ nằm quanh quẩn trong con số 10: 10 năm làm thơ trẻ em, 10 năm đi lính, 10 năm đi học, 10 năm làm phóng viên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Về Đài chắc cũng chỉ mười năm rồi lão tự xin “về vườn” để toàn tâm toàn ý với văn chương và thích gì thì làm nấy.
Ngoài làm thơ, viết báo, bây giờ, lão còn rất mê công nghệ, đặc biệt thích chụp ảnh và quay phim. Lão không tiếc tiền đầu tư cho công nghệ. Thậm chí, tiền kiếm được bao nhiêu, lão nướng vào việc mua máy ảnh. “Con” máy ảnh mới nhất Canon 1DX được lão bỏ tiền túi đầu tư tới cả trăm triệu đồng kể cả thân máy và ống kính để chỉ hy vọng mong sớm về hưu, rong ruổi đây đó chụp ảnh phong cảnh, rồi chụp ảnh chơi cho bạn bè. Lão khẳng định rằng, chớp được khoảnh khắc đẹp, cũng thú vị như khi làm được câu thơ hay và viết được một điều gì có ý nghĩa. Bởi cái đẹp thường mong manh lắm. Lão vẫn luôn tự nhận mình là lão nhà quê ở phố, nhưng niềm say mê công nghệ, sưu tập đủ bộ máy quay, máy ảnh để có thể làm được một bộ phim tài liệu tại nhà riêng của mình… thì lão cũng chả kém bất cứ một chàng trai trẻ Hà Thành nào. Và điều đó, với lão, bây giờ là một trong những niềm say mê bậc nhất song hành với việc viết lách.
Tôi hỏi lão Khoa một câu kinh điển: lão đang có ý định gì cho cuộc sống và văn chương của mình, bởi vì, gần đây, lão chưa có “cú hích” nào đáng giá cả! Lão cười: Trong bài “Trái đất quay”, ta cũng đã bàn rồi: “Chẳng có gì mới lạ/Trái đất tít mù quay/Nóng chán rồi sẽ lạnh/Buồn vui đều thoảng bay/Cái đến rồi sẽ đến/Cái qua thì phải qua/Chẳng cần chi phấn đấu/Ta cũng thành...cụ già/Coi đời như hạt bụi/Muốn yên mà chẳng yên/Thế giới còn chao đảo/Thì có chi vững bền?/Thôi, làm một việc thiện/Kịp trao nhau lúc này/Ngày mai nào ai biết/Cõi người mù mịt quay...”. Trong cuộc sống đầy bất trắc này, không biết được thế nào đâu. Nếu có chủ động được thì chỉ chủ động làm sao chết cho... vui.
Ta chuẩn bị rồi đấy, thím ạ. Một đám tang không có nỗi buồn. Ta viết sẵn dặn hai cô con gái và bạn bè thân hữu rằng: Trần Đăng Khoa chỉ là Trần Đăng Khoa khi lão còn sống (tức là thở ra và hít vào), khi không hít thở nữa thì đấy không phải là Trần Đăng Khoa. Vì thế, lão không chịu trách nhiệm về cái đống bầy hầy ở trong quan tài, đó không phải lão đâu. Vì thế không nên nhìn vào. Ghê chết đi được. Tốt nhất là thiêu ngay rồi cho vào cái niêu đất chôn dưới gốc khế. Vì xưa nay chó mèo chết đều như thế cả. Trước khi cho lão vào lò, hãy đọc hộ lão bài thơ bái biệt lão tự điếu mình như sau: Bao năm ròng mệt mỏi/Xuống xứ này rong chơi/Giờ ta làm ngọn khói/Õng ẹo bay về giời…