Chuyển từ “học” sang “làm”
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay, số lượng và chất lượng công bố quốc tế của các cơ sở giáo dục đại học đã tăng hơn 3 lần so với 7 năm trước.
Để có được kết quả này, những năm gần đây, một số đại học top đầu đã xác định nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
TS Nguyễn Đắc Trung, Phó Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Bách khoa Hà Nội cho biết: “Nghiên cứu sinh phải thực sự là người làm tiến sĩ, coi đây là công việc của họ. Từ đó, mới tạo nên động lực đúng đắn, thúc đẩy nghiên cứu sinh hoàn thành tốt công việc của mình”.
Trên thực tế, kinh nghiệm của Trường ĐH Bách khoa Hà Nội là xây dựng định hướng nghiên cứu, hợp tác với nước ngoài, doanh nghiệp, thành lập trung tâm nghiên cứu hỗn hợp, thu hút đầu tư đào tạo dài hạn đến ươm mầm nhân tài. Sinh viên năm 3 đại học tham gia các nhóm nghiên cứu đến sau đại học.
Để có thể làm tiến sĩ một cách thực sự thì hướng đi của một số trường đại học là thành lập những nhóm nghiên cứu mạnh.
PGS. TS Lê Hiếu Giang, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP Hồ Chí Minh cho biết: "Thành lập những nhóm nghiên cứu là một trong những giải pháp của trường nhằm thu hút nghiên cứu sinh. Nghiên cứu sinh không có nhóm nghiên cứu thì không có sự hỗ trợ. Nhóm nghiên cứu của chúng tôi bao gồm GS, PGS, TS, Thạc sĩ, cử nhân và kỹ sư”.
Theo PGS Giang, thông qua các nhóm nghiên cứu, trường thu hút nhiều dự án để nghiên cứu, giải quyết những vấn đề thực tiễn. Đồng thời, với cơ chế tự chủ, trường có thể hỗ trợ nghiên cứu sinh trong nghiên cứu khoa học, thưởng bài báo ISI,…
Nhóm nghiên cứu mạnh quyết định chất lượng tiến sĩ
Theo GS TSKH Nguyễn Đình Đức, ĐH Quốc gia Hà Nội, kết quả khảo sát 463 nghiên cứu sinh và 333 giảng viên của các cơ sở GDĐH trên toàn quốc cho thấy: Uy tín của nhóm giảng viên/nghiên cứu sinh tham gia nhóm nghiên cứu công bố quốc tế cao gấp 4, 6 lần so với nhóm giảng viên/nghiên cứu sinh chưa từng tham gia nhóm nghiên cứu.
Nhóm giảng viên và nghiên cứu sinh đã từng tham gia nhóm nghiên cứu có số công bố khoa học trung bình lớn hơn hẳn nhóm chưa từng tham gia nhóm nghiên cứu (về cả công bố trong nước, nước ngoài trong và ngoài hệ thống ISI/Scopus).
Nổi bật nhất là số lượng công bố khoa học trên hệ thống ISI/Scopus của nhóm giảng viên đã từng tham gia nhóm nghiên cứu gấp tới 4,87 lần so với nhóm giảng viên chưa từng tham gia nhóm nghiên cứu. Kết quả tương tự, nhóm nghiên cứu sinh đã từng tham gia nhóm nghiên cứu gấp tới 4,86 lần so với nhóm nghiên cứu sinh chưa từng tham gia nhóm nghiên cứu.
Điều này cho thấy, việc tham gia nhóm nghiên cứu góp phần không nhỏ giúp nghiên cứu sinh công bố khoa học - đặc biệt là công bố quốc tế. Bởi vì, tham gia nhóm nghiên cứu, nghiên cứu sinh sẽ được giúp đỡ không chỉ từ chính giảng viên hướng dẫn mà còn là từ các thành viên khác trong nhóm nghiên cứu về xây dựng ý tưởng, viết bài báo cho tới cách thức để hoàn thiện cũng như nộp sản phẩm khoa học của mình.
Là một trong những người hướng dẫn, cũng như thành lập các nhóm nghiên cứu mạnh của ĐH Quốc gia Hà Nội, GS TSKH Nguyễn Đình Đức chia sẻ: Quá trình đào tạo nghiên cứu sinh không chỉ nghiên cứu mà còn giúp nghiên cứu sinh trưởng thành cả về nhân cách, hoàn thiện kỹ năng cơ bản, thiết yếu.
Khảo sát cũng cho thấy, yếu tố “Có nhóm nghiên cứu và môi trường học thuật” là một trong hai yếu tố được đánh giá là quan trọng nhất, đứng sau yếu tố “Chất lượng đội ngũ hướng dẫn nghiên cứu sinh”. Tuy nhiên, thực tế, ngoài đội ngũ hướng dẫn được đánh giá cao, những điều kiện quan trọng khác như cơ sở vật chất, kinh phí và nhóm nghiên cứu có mức độ đầu tư còn hạn chế.
GS TSKH Nguyễn Đình Đức đề xuất sửa đổi Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ theo hướng đặt ra yêu cầu cao đối với người học và cán bộ hướng dẫn, đồng thời có chế độ, chính sách khuyến khích cán bộ, nghiên cứu sinh tích cực tham gia nghiên cứu khoa học; Tăng quy mô và chất lượng nghiên cứu sinh.
“Những giải pháp then chốt là tăng cường xây dựng, đầu tư nhón nghiên cứu, đầu tư dài hơi cho các nhóm nghiên cứu mạnh. Nghiên cứu sinh cần làm việc toàn thời gian, tăng cường học bổng và tham gia nhóm nghiên cứu. Các trường đại học phải thu hút được nhà khoa học đầu ngành và nhân tài, đồng thời hội nhập với quốc tế, thích ứng với Cách mạng công nghiệp 4.0”, GS TSKH Nguyễn Đình Đức chia sẻ.
Chia sẻ về vấn đề này, Quyền Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học Nguyễn Thu Thủy cho biết: Trong hai năm qua, từ đăng ký chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ của các trường cho thấy, số trường đào tạo tiến sĩ gia tăng. Tuy số ngành đào tạo giảm đi, tỷ lệ nghiên cứu sinh nhập học trong nước giảm sút, nhưng số lượng học viên đăng ký năm 2020 của các trường cao hơn nhiều so với năm 2019.
“Đây là một tín hiệu đáng mừng. Khi Quy chế đi vào thực tiễn, các trường đã có sự chủ động nâng cao năng lực, đội ngũ mạnh hơn, công bố quốc tế nhiều hơn”, PGS TS Nguyễn Thu Thủy nhận định.
Thời gian tới, Bộ GD&ĐT nghiên cứu sửa đổi Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao tinh thần tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời có những điểm sửa đổi kỹ thuật để phù hợp với thực tiễn, nâng cao chất lượng tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ, tiệm cận với quốc tế.