Các cơ quan chức năng của tỉnh Hà Tĩnh xác định, nguyên nhân khiến ngao chết là do các hộ dân thả ngao giống với mật độ quá dày, lên đến 2.000 con/m2 (theo các nhà chuyên môn, mật độ nuôi thích hợp là 150 - 350 con/m2), khiến cho hàm lượng ôxy không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển của ngao; nguồn giống ngao không có hồ sơ kiểm dịch, chủ yếu người dân mua trôi nổi... Bên cạnh đó, do không nắm vững kỹ thuật, người nuôi thả ngao giống chung với ngao thương phẩm cũng là nguyên nhân khiến ngao bị chết.
Theo UBND xã Mai Phụ (huyện Lộc Hà), xã có 80 ha nuôi ngao ở vùng bãi, trung bình mỗi ha cho thu hoạch khoảng 30 tấn ngao thương phẩm. Ngao thương phẩm được bán với giá khoảng 13 triệu/tấn, doanh thu từ nuôi ngao toàn xã đạt trên dưới 30 tỷ đồng/năm. Nhưng năm nay, toàn bộ các hộ nuôi ngao đều chịu thiệt hại, bước đầu xác định có khoảng 70% số lượng ngao bị chết.
Ngao chết hàng loạt không chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho người nuôi, mà còn là nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nếu không kịp thời thu gom ngao chết và ảnh hưởng đến diện tích ngao còn lại. “Vết xe đổ” về thảm họa môi trường có thể lặp lại nếu người nuôi chủ quan trong quy trình xử lý ngao chết. Theo các nhà chuyên môn, nếu chỉ thu dọn xác ngao trên bề mặt mà không cày xới, phơi bãi và cách ly đủ thời gian, thì mức độ nhiễm bẩn sẽ đe dọa đến vụ nuôi tiếp sau. Đó là chưa kể lượng ngao chết còn nằm dưới đất dẫn đến nguy cơ làm ô nhiễm môi trường nước và đe dọa đến nguồn lợi nhiều loại thủy sản khác.
Khoảng từ 10 năm trở về trước, nghề nuôi ngao ở huyện Lộc Hà cũng như một số huyện ven biển tỉnh Hà Tĩnh được coi là nghề “siêu lợi nhuận”. Ngao được ví là nguồn “vàng trắng” của địa phương. Nuôi ngao được chính quyền địa phương xác định là hướng phát triển kinh tế quan trọng, mở hướng đi mới cho nghề nuôi trồng thủy sản ở các huyện ven biển tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên, do nuôi ngao chủ yếu là tự phát, thiếu quy hoạch, công tác quản lý còn nhiều bất cập, nguồn giống tiêu chuẩn không đủ đáp ứng cho các hộ nuôi, thị trường tiêu thụ bấp bênh..., dẫn tới những rủi ro khi điều kiện tự nhiên thay đổi bất thường.
Vài ba năm trở lại đây, nghề nuôi ngao ở Hà Tĩnh chẳng được “thuận buồm xuôi gió”, đặc biệt là thị trường tiêu thụ ngao thương phẩm. Biết người nuôi gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm, tư thương đã tìm mọi cách để ép giá. Nhiều hộ nuôi ngao rơi vào tình cảnh bế tắc, sản phẩm làm ra mà chẳng biết bán cho ai. “Bỏ thì thương, vương thì tội”, không ít chủ đầm ngao đành bán đổ, bán tháo, với suy nghĩ vớt vát “được đồng nào hay đồng ấy”. Không chỉ ở huyện Lộc Hà, một số chủ đầm ngao ở các địa phương khác trong tỉnh như Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh… đã phải thuê phương tiện chở ngao tiêu thụ tại các siêu thị, trung tâm thương mại ở Hà Nội và một số tỉnh lân cận... Không những thế, khi gặp khó khăn về đầu ra, các chủ đầm cũng chẳng thiết tha thu hoạch, khiến hàng nghìn lao động sống bằng nghề này bỗng trở nên thất nghiệp...
Không thể phủ nhận những lợi ích mà nghề nuôi ngao mang lại. Tuy nhiên, những thiệt hại mà người nuôi ngao ở Hà Tĩnh phải gánh chịu đang là hồi chuông cảnh báo về sự lệ thuộc vào thị trường tiêu thụ tiểu ngạch, một thị trường tiềm ẩn nhiều rủi ro. Những bài học nhãn tiền từ các cây, con khác phát triển ồ ạt, không theo quy hoạch, thiếu định hướng lại hiển hiện trước mắt người nuôi ngao ở Lộc Hà và các vùng ngao khác của tỉnh Hà Tĩnh. Chẳng bài học nào giống bài học nào, nhận ra thì sự đã rồi và muốn dứt bỏ cũng không đơn giản. Hệ quả là rất nhiều hộ nuôi ngao lâm vào cảnh trắng tay, gánh một khoản nợ chồng chất do vay vốn ngân hàng.
Đã có không ít bài học đau xót khi các hộ sản xuất, doanh nghiệp làm ăn với đối tác nước ngoài qua đường tiểu ngạch rơi cảnh lao đao vì giá cả lên xuống thất thường, lúc thì thu gom với lượng lớn, khi thì đột ngột dừng mua..., với kịch bản chung là thao túng - mua một phần - ngừng mua - mua lại và ép giá.
Còn nhớ cách đây vài năm, nông dân một số tỉnh miền Tây Nam Bộ thấy thương lái nước ngoài ồ ạt đặt hàng mua tôm nguyên liệu. Do hám lợi mà nhiều hộ đã đơn phương chấm dứt hợp đồng bán tôm nguyên liệu cho các nhà máy chế biến trong nước, khiến nhiều cơ sở chế biến trong nước lâm vào khủng hoảng vì thiếu nguyên liệu. Không những thế, nhiều hộ nuôi tôm từ khá giả, bỗng trở nên khuynh gia bại sản, nợ nần chồng chất khi các thương lái nước ngoài đột ngột dừng mua. Bởi vậy, các doanh nghiệp và người nuôi ngao cần phải cảnh giác, tránh ham cái lợi trước mắt, chạy theo nhu cầu ảo, dẫn tới những thiệt hại không thể lường trước.
Liệu rằng, sau thảm họa của việc nuôi ngao tự phát, các ngành chức năng tỉnh Hà Tĩnh rút ra được bài học gì trong việc định hướng phát triển các loại cây, con, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao, vừa có tính bền vững. Có lẽ, thị trường tiêu thụ, chiến lược đầu tư gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, kết nối doanh nghiệp với người dân trong bao tiêu sản phẩm... sẽ là những bài học cần rút ra không chỉ với các cấp lãnh đạo, các ngành chức năng tỉnh Hà Tĩnh.