Theo đó, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chỉ ra, thứ nhất là quy mô kinh tế vùng còn khiêm tốn, động lực tăng trưởng của vùng còn yếu. Trong 14 tỉnh, chỉ có 4 tỉnh là Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi và Quảng Nam có dự án động lực quy mô lớn. Các tỉnh còn lại tốc độ tăng trưởng còn thấp, chưa khai thác được thế mạnh về hệ thống cảng biển, sân bay sẵn có.
Một số hành lang kinh tế (Đà Nẵng - Quốc lộ 1A và hành lang Đà Nẵng - Quốc lộ 14B - 14D - Nam Giang - Đông-Tây; Dung Quất - Tây Nguyên; Quy Nhơn - Tây Nguyên) chưa phát huy sức hút lớn về công nghiệp, dịch vụ; xuất khẩu tăng cao nhưng tỷ trọng còn thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (chỉ chiếm 4,76% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước). Phát triển chưa đồng đều xét trên yếu tố vùng, lãnh thổ giữa các tỉnh trong vùng và nội bộ từng địa phương, ảnh hưởng tới khả năng phát triển vùng một cách đồng bộ, toàn diện.
Thứ hai là Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định chưa thể hiện được vai trò là hạt nhân tăng trưởng, đầu tầu dẫn dắt kinh tế vùng. Tỷ trọng GRDP của vùng kinh tế trọng điểm so với GDP cả nước trong giai đoạn 2016-2018 có xu hướng giảm, năm 2016 chiếm 7,89%, năm 2017 là 7,79%, đến năm 2018 chiếm 7,84%.
Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân hàng năm thời kỳ 2016-2018 là 7,3%/năm (đứng thứ 3 trong 6 vùng kinh tế của cả nước) thấp hơn bình quân vùng miền Trung (7,62%). Tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2019 của 4/5 địa phương thuộc Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung tăng trưởng thấp hơn bình quân chung của vùng và cả nước.
Thứ ba là thu ngân sách chưa bền vững, mặc dù, tăng cao nhưng số thu một lần, thu không ổn định còn chiếm tỷ lệ lớn, thu từ tiền sử dụng đất, xổ số kiến thiết chiếm tỷ lệ cao trong tổng số thu nội địa, chiếm tỷ lệ khoảng 22-25%.
Điểm nghẽn thứ tư được Bộ trưởng chỉ ra là hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, nội vùng còn yếu và thiếu. Tuyến đường ven biển còn chưa kết nối được các tỉnh và vùng theo dải bờ biển miền Trung, các tuyến đường trục Bắc - Nam, Đông - Tây đường nối từ khu vực ven biển lên Tây Nguyên, nối ven biển với vùng trung du, miền núi chưa được đầu tư mới, nâng cấp; tuyến đường sắt khổ 1,4 m chậm được đầu tư.
Thứ năm là nguy cơ thiếu nước ngọt, nhiễm mặn và hạn hán ngày càng rõ rệt, đặc biệt tại các tỉnh Nam Trung bộ. Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các khu kinh tế, khu công nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp còn cao.
Điểm nghẽn thứ sáu là thu hút đầu tư nước ngoài vào vùng còn thấp, chủ yếu dự án vừa và nhỏ. Các nhà đầu tư nước ngoài, tập đoàn, doanh nghiệp lớn có tâm lý e ngại khi đầu tư vào vùng thường gặp thiên tai, bão lũ và giao thông chưa thật sự thuận tiện.
Thứ bảy là chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo có cấp chứng chỉ mới đạt khoảng 22-23%, thuộc vùng có tỷ lệ thấp của cả nước. Do đặc điểm là vùng thuần nông nghiệp và ngư nghiệp nên phong cách làm việc công nghiệp, kỷ luật và tính chuyên nghiệp chưa cao, lực lượng lao động cần có sự đào tạo để dần thay đổi thói quen, tác phong làm việc. Tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao (8,7%) so với bình quân cả nước (6,8%).
Điểm nghẽn cuối cùng được Bộ trưởng Dũng chỉ ra là thiếu sự liên kết vùng. Theo đó, vẫn còn tình trạng mạnh ai nấy làm, thậm chí cạnh tranh lẫn nhau; công tác phối hợp giữa các địa phương trong vùng còn rất hạn chế; chưa hình thành được sự kết nối về chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, kết cấu hạ tầng, cơ chế, chính sách, nguồn nhân lực dẫn đến làm chậm tiến trình hình thành một không gian kinh tế thống nhất; đồng thời, chưa có sự phân công lao động giữa các tỉnh, thành phố trong vùng, dẫn tới đầu tư còn trùng lắp, các tỉnh, thành phố không phát huy được lợi thế so sánh của mình.
Tư lệnh ngành Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh, vùng miền Trung đang phải đối mặt với một số khó khăn, thách thức. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu, lắng nghe các thảo luận thấu đáo đề ra phương hướng giải quyết khặc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của vùng trong thời gian tới.