Dự báo về tình hình nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp vụ Hè Thu, Mùa 2020, Tổng cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, khu vực Trung bộ sẽ có khoảng hàng chục nghìn ha diện tích canh tác sẽ không đủ nguồn nước tưới nên cần phải điều chỉnh giảm, giãn tiến độ gieo cấy hoặc chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Bởi, nhiều hồ chứa thủy lợi sẽ chỉ còn rất ít nước trước khi bước vào vụ; thậm chí nhiều hồ chứa nhỏ có khả năng cạn nước.
Hiện tổng dung tích các hồ thủy lợi trong khu vực Bắc Trung bộ phổ biến đạt từ 50-70% dung tích thiết kế. Sau khi cung cấp nước đến hết vụ Đông Xuân, dung tích các hồ chứa còn lại phổ biến từ 40-60% dung tích thiết kế. Riêng hồ thủy lợi Cửa Đạt có dung tích trữ chỉ đạt 32% dung tích thiết kế, thấp hơn cùng kỳ các năm từ 2015 đến 2019 từ 10-50%. Các hồ chứa thủy điện thường xuyên tham gia điều tiết nước phục vụ thủy lợi hiện có dung tích trữ phổ biến từ 50-75% dung tích thiết kế.
Dự báo, vụ Hè Thu và vụ Mùa 2020, khu vực Bắc Trung bộ khả năng sẽ có khoảng từ 13.000-22.000 ha diện tích canh tác không đủ nguồn nước tưới, cần phải điều chỉnh giảm, giãn tiến độ gieo cấy hoặc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chiếm khoảng từ 2,7-4,6% diện tích gieo trồng hàng năm (tổng gieo trồng toàn vùng 476.300 ha).
Điển hình, lưu vực sông Mã và vùng phụ cận thuộc tỉnh Thanh Hóa đến đầu vụ Hè Thu 2020, dung tích các hồ chứa đạt khoảng 36% dung tích thiết kế. Nguồn nước bảo đảm đủ tưới cho khoảng 150.000 ha cây trồng. Diện tích cần phải điều chỉnh giảm, giãn tiến độ gieo cấy hoặc chuyển đổi cơ cấu cây trồng khoảng từ 5.000-10.000 ha thuộc khu tưới các hồ lớn như Cửa Đạt, Bái Thượng, Sông Mực, Yên Mỹ..., một số trạm bơm lấy nước dọc triền sông Mã, sông Chu, sông Bưởi, vùng đồng bằng ven biển Nam sông Mã.
Hay lưu vực sông Lam và vùng phụ cận thuộc tỉnh Nghệ An, đến đầu vụ Hè Thu 2020, dung tích các hồ chứa đạt trung bình khoảng 62% dung tích thiết kế. Nguồn nước sẽ bảo đảm cung cấp đủ nước tưới cho khoảng 110.000 ha cây trồng. Diện tích có nguy cơ phải lùi tiến độ gieo cấy và chuyển đổi sang cây trồng cạn (nếu có nắng nóng kéo dài trong tháng 6-7) khoảng 6.000-9.000 ha thuộc vùng Nam Hưng Nghi, Diễn Yên Quỳnh.
Tại khu vực Nam Trung bộ, hiện tổng dung tích các hồ chứa thủy lợi phổ biến đạt từ 30-70% dung tích thiết kế. Các hồ chứa thủy điện bổ sung nguồn nước cho vùng hiện có dung tích hữu ích tương đối thấp. Chẳng hạn như: hồ Ka Nak bổ sung nước cho tỉnh Bình Định đạt 15% dung tích thiết kế, thấp hơn 34% cùng kỳ trung bình nhiều năm; hồ Đại Ninh bổ sung nước cho tỉnh Bình Thuận đạt 15% dung tích thiết kế, thấp hơn 32%.
Sau khi kết thúc vụ Đông Xuân, dung tích hồ chứa thủy lợi còn lại phổ biến từ 20-60% dung tích thiết kế. Khả năng có khoảng từ 40.000-45.000 ha diện tích canh tác không đủ nguồn nước tưới. Vì vậy, cần điều chỉnh giảm diện tích, giãn vụ hoặc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chiếm khoảng từ 11-12% diện tích gieo trồng hàng năm (tổng gieo trồng toàn vùng 370.000 ha).
Cụ thể, lưu vực sông Cái Phan Rang và vùng phụ cận thuộc tỉnh Ninh Thuận, đến đầu vụ Hè Thu, tổng dung tích các hồ chứa thủy lợi sẽ chỉ còn khoảng 18% dung tích thiết kế; trong đó, nhiều hồ chứa nhỏ có khả năng cạn nước. Nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt gặp nhiều khó khăn, hầu hết các hồ chứa nhỏ chỉ đủ nước cho sinh hoạt. Diện tích khuyến cáo sản xuất đảm bảo nguồn nước khoảng 15.300 ha.
Lưu vực sông Lũy, sông La Ngà và vùng phụ cận thuộc tỉnh Bình Thuận, đến đầu vụ Hè Thu, dung tích các hồ chứa thủy lợi còn khoảng 20% dung tích thiết kế. Hồ thủy điện Đại Ninh hiện dung tích hữu ích còn khoảng 10%.
Tổng cục Thủy lợi, khuyến cáo các huyện phía Bắc tỉnh Bình Thuận gồm Tuy Phong, Bắc Bình và Hàm Thuận Bắc cần có kế hoạch điều chỉnh sản xuất cho diện tích khoảng 16.000 ha sử dụng nước sau thủy điện Đại Ninh và khu tưới các hồ chứa Đá Bạc, Lòng Sông, Cà Giây, Sông Quao...
Lưu vực sông cái Ninh Hòa, sông Cái Nha Trang và vùng phụ cận tỉnh Khánh Hòa, đến đầu vụ Hè Thu, dung tích trữ các hồ chứa thủy lợi đạt khoảng 35% dung tích thiết kế. Diện tích có nguy cơ không đảm bảo nguồn nước cần chuyển đổi kế hoạch sản xuất khoảng từ 10.000-12.000 ha ở các khu vực hồ chứa có dung tích trữ thấp.