EC ghi nhận, đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, qua bốn lần thanh tra tại Việt Nam, phía EC luôn ghi nhận, đánh giá cao nỗ lực chống khai thác IUU của Việt Nam, đặc biệt là quyết tâm chính trị, sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Đoàn cũng đánh giá sự chuyển biến tích cực, đi đúng hướng và sự chỉ đạo rất sát sao từ Trung ương đến các cấp địa phương của Việt Nam.
Các chuyên gia quốc tế cho rằng, đợt thanh tra sắp tới của EC dự kiến diễn ra vào tháng 10/2024 sẽ tiếp tục là một cơ hội để Việt Nam chứng minh cam kết chính trị mạnh mẽ của mình từ cấp Trung ương đến địa phương, cũng như việc thực hiện một cách nghiêm túc các giải pháp để chống lại hoạt động đánh bắt IUU. Vấn đề mấu chốt là làm sao Việt Nam có thể chứng minh cho EC thấy nỗ lực của Việt Nam không chỉ dừng ở việc hoàn thiện thể chế, khung pháp lý, mà còn thể hiện bằng sự thi hành thực chất, hiệu quả trên các địa phương.
Chuyên gia James Borton, nghiên cứu viên cấp cao tại Viện Chính sách Đối ngoại thuộc Trường Nghiên cứu Quốc tế Nâng cao Paul H. Nitze (SAIS) của Đại học Johns Hopkins, nghiên cứu về tình hình an ninh môi trường tại Biển Đông khẳng định: “Chính quyền Việt Nam đã thể hiện sự thiện ý và sẵn sàng tăng cường các khuôn khổ pháp lý, cũng như cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc và tính minh bạch trong việc kinh doanh các sản phẩm thủy hải sản. Những cam kết này cho thấy tầm quan trọng của việc hợp tác để giải quyết hiệu quả các thách thức liên quan đến IUU.”
Theo ông Borton, ngành thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn ở Việt Nam, cho nên việc bị áp “thẻ vàng” IUU đã ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang châu Âu. Do đó, Việt Nam đã khẩn trương thực hiện các biện pháp mạnh chống khai thác IUU, quản lý chặt chẽ việc khai thác hải sản ở các vùng biển của mình, đặc biệt khi mà Biển Đông - một trong những ngư trường lớn nhất thế giới - hiện đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt nguồn cá.
Vì vậy, là một trong những nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, Việt Nam đã và đang nỗ lực để củng cố các khuôn khổ pháp lý, nâng cao việc truy xuất nguồn gốc và tính minh bạch của các sản phẩm thủy hải sản, chuyên gia nghiên cứu về môi trường an ninh tại Biển Đông nhấn mạnh.
Cụ thể, Việt Nam đã thực hiện một số biện pháp để chống đánh bắt IUU, bao gồm lắp đặt hệ thống giám sát hành trình (VMS) cho các tàu cá, hợp tác với các nước Đông Nam Á khác và các tổ chức xuyên quốc gia, tham gia vào Hiệp định Liên Hợp Quốc về thực thi các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển ngày 10/12/1982 liên quan đến bảo tồn, quản lý các đàn cá lưỡng cư và di cư xa (UN Fish Stocks Agreement - UNFSA) và Hiệp định về biện pháp các quốc gia có cảng (Agreement on Port State Measures - PSMA).
Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn nhất trong việc giải quyết vấn đề khai thác IUU mà Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trong khu vực và thế giới đang gặp phải đó là chưa có đủ công nghệ tiên tiến cũng như năng lực để giải quyết các hành vi vi phạm một cách triệt để. Đối với Việt Nam, điều này càng trở nên đặc biệt khó khăn vì Việt Nam có đường bờ biển dài hơn 3.000 km, 28 trên tổng số 63 địa phương có đường biển, cùng với số lượng tàu cá rất lớn và hàng triệu ngư dân, cho nên việc thực thi các quy định và thường xuyên cập nhật cơ sở dữ liệu về hoạt động của các tàu cá là điều không hề dễ dàng.
Ông Stephen Nagy, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách của Hội đồng Nghiên cứu Châu Á - Thái Bình Dương Yokosuka (YCAPS) cho biết: “Chúng ta có thể thấy một vấn đề tồn tại là một số tàu tham gia vào hoạt động đánh bắt thủy hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định là việc họ tự ý tắt các thiết bị hệ thống giám sát hành trình (VMS) để hoạt động lén lút, tránh bị phát hiện. Đó là lý do tại sao chúng ta gọi đó là những “tàu tắt đèn” (dark vessel). Chừng nào tình trạng này còn tiếp diễn, sẽ rất khó để bảo vệ và duy trì các nguồn tài nguyên biển cho các thế hệ tương lai.”
Do đó, việc tiếp cận các công nghệ tiên tiến có thể giúp xác định các tàu tự ý tắt thiết bị VMS là rất cần thiết. Các quốc gia như Việt Nam cần có sự hỗ trợ về công nghệ từ các nước phát triển trong và ngoài khu vực. Ví dụ, Canada đã trợ giúp Philippines lắp đặt hệ thống phát hiện tàu tắt đèn (dark vessel technology) để theo dõi ngư dân, tàu cá đánh bắt bất hợp pháp ngay cả khi họ tắt thiết bị định vị của mình. Điều này đã góp phần vào việc giúp Philippines xóa bỏ thành công “thẻ vàng” của EC. Đây có thể sẽ là một lĩnh vực hợp tác trong tương lai giữa Việt Nam và Canada, ông Nagy cho biết.
Đồng ý kiến với ông Nagy, ông Jean-Jacques Bouflet, Phó Chủ tịch EuroCham phụ trách chính sách, ghi nhận những tiến bộ mà Việt Nam đã đạt được trong việc xây dựng và tăng cường thực thi các khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề “thẻ vàng” của Việt Nam vẫn tồn tại một phần là vì những hạn chế về mặt nhân sự và khả năng thực thi pháp luật, đặc biệt là việc sử dụng các thiết bị giám sát hành trình của tàu cá. Việt Nam cần thực hiện các giải pháp để đảm bảo các thiết bị này được sử dụng một cách liên tục và hiệu quả. Việc nâng cao nhận thức của ngư dân và cả những người tiêu dùng sản phẩm thủy sản cũng vô cùng quan trọng trong việc góp phần giảm thiểu, ngăn chặn các hành vi đánh bắt IUU, ông Bouflet nhấn mạnh.
Bà Rhea Moss-Christian, Giám đốc điều hành Ủy ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC) nhận định việc đánh bắt hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định IUU ảnh hưởng nghiêm trọng tới những nỗ lực quản lý phát triển nghề cá bền vững, đe dọa hệ sinh thái biển, sinh kế cũng như an ninh lương thực của cộng đồng, đặc biệt là ở các quốc đảo nhỏ đang phát triển và các vùng lãnh thổ ở Tây Thái Bình Dương.
Bà Rhea Moss-Christian cho biết Việt Nam đang hợp tác với WCPFC và có những đóng góp nhất định vào việc hỗ trợ quản lý bền vững các đàn cá di cư xa theo phạm vi của Công ước WCPFC, thông qua các hoạt động hợp tác xuyên quốc gia và tiểu vùng ở Biển Tây Thái Bình Dương và Biển Đông Á. Từ năm 2009, Việt Nam là một trong ba quốc gia tham gia Dự án Quản lý nghề khai thác cá ngừ trong vùng biển Tây Thái Bình Dương và Đông Á (WPEA-ITM) của WCPFC. Dự án này đã trực tiếp giúp cải thiện việc thu thập dữ liệu nghề cá và giải quyết những khoảng trống trong việc cập nhật những dữ liệu quan trọng liên quan đến đánh giá trữ lượng cá ngừ nhiệt đới.
Chia sẻ những thông tin liên quan đến Hội thảo khu vực về chống khai thác (IUU) diễn ra tại Đà Nẵng vào cuối tháng 4/2024, Giám đốc điều hành WCPPC cho biết các chuyên gia quốc tế đến từ 12 quốc gia bao gồm Australia, Canada, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Vương quốc Anh, Mỹ và Việt Nam đã chia sẻ những kinh nghiệm liên quan đến chống đánh bắt IUU. Thông qua Hội thảo, Việt Nam đã giới thiệu các biện pháp phòng, chống đánh bắt IUU, bao gồm công tác kiểm tra Nhà nước cảng biển, giúp hỗ trợ những nỗ lực chung trong việc chống khai thác IUU ở Biển Tây Thái Bình Dương và Biển Đông Á.
Cần sự tham gia của tất cả các bên liên quan
Giám đốc điều hành WCPFC nhấn mạnh một số yếu tố chính giúp các quốc gia chống lại đánh bắt IUU hiệu quả, bảo vệ và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển cho các thế hệ tương lai. Đó là sự phối hợp và chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ban, ngành; sự hợp tác giữa lực lượng bảo vệ bờ biển quốc gia, thanh tra cảng và các tổ chức quản lý nghề cá khu vực; sự hợp tác với các nước láng giềng để chia sẻ các thông lệ tốt nhất về cách tiếp cận chống đánh bắt IUU và trao đổi thông tin về các mối đe dọa trên biển.
Phó Chủ tịch EuroCham phụ trách chính sách Jean-Jacques Bouflet cho biết EuroCham sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm trong việc triển khai các hoạt động liên quan đến việc cải thiện giám sát truy xuất nguồn gốc của sản phẩm và phát triển bền vững, đồng thời mong muốn hợp tác và tham gia tích cực hơn với các bên liên quan như Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) để đảm bảo rằng các thành viên của VASEP khi thu mua các sản phẩm để tái xuất khẩu sang châu Âu, họ có thể tự rà soát lại nguồn gốc của các sản phẩm đó có được khái thác hợp pháp hay không. Trong tháng 10/2024, EuroCham sẽ tổ chức Diễn đàn và Triển lãm Kinh tế Xanh (GEFE) tại Thành phố Hồ Chí Minh nhằm trao đổi những biện pháp giúp phát triển nghề cá một cách bền vững.
Trong khi đó, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Chính sách Đối ngoại thuộc Trường Nghiên cứu Quốc tế Nâng cao Paul H. Nitze (SAIS) của Đại học Johns Hopkins, James Borton, gợi ý rằng Việt Nam có thể một lần nữa đi đầu trong việc dẫn dắt các nước trong Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) bằng cách kêu gọi sự ủng hộ của các Tổ chức Quản lý Nghề cá Khu vực (RFMO) và các nước láng giềng trong khu vực tổ chức các hội thảo nhằm chia sẻ các thông lệ tốt nhất trong quản lý phát triển nghề cá bền vững.
Ông Borton nhấn mạnh phát triển ngành thủy sản là ưu tiên hàng đầu để các nước ASEAN đẩy mạnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Đã đến lúc các quốc gia Đông Nam Á; trong đó có Việt Nam, cần đổi mới trọng tâm phát triển, trong Kế hoạch Hành động Chiến lược về Hợp tác Nghề cá ASEAN 2021-2025.
Xét cho cùng, việc chống khai thác, đánh bắt IUU đòi hỏi sự tham gia nỗ lực chung của tất cả các bên, đặc biệt là ý thức của ngư dân và cộng đồng nghề cá nói chung.