Tác động gia tăng và khó lường
Theo Báo cáo chỉ số rủi ro khí hậu dài hạn năm 2019 của Germanwatch được công bố tháng 12/2018, tại Hội nghị thượng đỉnh thường niên về biến đổi khí hậu diễn ra ở Katowice (Ba Lan): Trong 20 năm qua, Việt Nam được xếp vào nhóm 10 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu, đang tác động xấu đến tất cả các ngành, lĩnh vực và vùng, miền ở Việt Nam, điển hình là lĩnh vực nông nghiệp và các vùng đồng bằng, ven biển. Trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long được dự báo sẽ chịu những rủi ro cao nhất do thiên tai và biến đổi khí hậu.
Theo Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng 2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nếu nước biển dâng cao 1m Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có nguy cơ ngập cao nhất (39,4% diện tích). Đặc biệt tỉnh Hậu Giang có diện tích ngập lớn nhất (80,62%).
Điều này sẽ tác động lớn đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của người dân. Hạn hán, xâm nhập mặn, xâm thực bờ biển tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá là nghiêm trọng nhất và chưa từng có trong lịch sử các khu vực này, gây thiệt hại lớn về tài sản của người dân và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, việc tăng cường các hoạt động khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn, nhất là hoạt động khai thác thủy điện trên dòng chính sông Mê kông đã làm ảnh hưởng đến dòng chảy, làm trầm trọng thêm nguy cơ cạn kiệt nguồn nước, gây ra tình trạng lũ về ít và muộn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với cấu tạo địa chất sụt lún khoảng 2cm/năm do tự nhiên và do khai thác nước ngầm quá mức.
Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2017 cũng cho thấy, khu vực Đồng bằng Cửu Long hiện có 562 điểm sạt lở với tổng chiều dài trên 786 km. Sạt lở bờ sông chủ yếu diễn ra dọc theo sông Tiền và Hậu, Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây và các nhánh chính của hệ thống kênh, rạch. Sạt lở diễn biến ngày càng phức tạp, gia tăng cả về phạm vi và mức độ nghiêm trọng.
Thiên tai xảy ra ngày càng khốc liệt, dị thường, trái quy luật và gia tăng ở cả mức độ, cường độ. Thiệt hại do thiên tai và ngày càng gia tăng ở mức nghiêm trọng, nặng nhất là năm 2017 - 2018 với 7.990 tỷ đồng. Tính chung trong giai đoạn 2010 - 2018, tổng thiệt hại do thiên tai và biến đổi khí hậu ở Đồng bằng song Cửu Long khoảng 20.945 tỷ đồng.
Tăng cường liên kết giữa các địa phương
Đồng bằng sông Cửu Long bước đầu đã đưa các vấn đề về vùng và liên kết vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu vào các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế-xã hội, cụ thể như: Quyết định số 639 ngày 2/4/2014 về việc phê duyệt Quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng Đồng bằng song Cửu Long đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện biến đổi khí hậu.
Trong đó nhấn mạnh, quy hoạch nông nghiệp, nông thôn trong vùng trên cơ sở đổi mới tư duy, cách tiếp cận thị trường nhằm khai thác, phát huy lợi thế của vùng và địa phương để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Đồng thời, tạo sự liên kết sản xuất, xây dựng các vùng sản xuất chuyên canh, cánh đồng mẫu lớn. Ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ trong sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, trong bối cảnh ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, để cụ thể hóa cơ chế pháp lý cho liên kết vùng ở đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 593 ngày 6/4/2016 về việc ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng song Cửu Long giai đoạn 2016 - 2020. Trong đó chú trọng đến nội dung xây dựng, nâng cấp hệ thống đê biển, đê bao, cống, đập, vành đai rừng ngập mặn và các dự án bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu...
Để phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ứng phó với các thách thức từ sự phát triển nội tại của vùng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH.
Nghị quyết nêu rõ, cần tiếp cận tổng hợp, theo hướng tích hợp tổng thể kinh tế - xã hội toàn vùng; tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng; mọi hoạt động đầu tư phải được điều phối thống nhất, đảm bảo tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm. Triển khai Nghị quyết, một số địa phương trong vùng đã tích cực xây dựng các Đề án liên kết phát triển bền vững dựa trên các tiểu vùng sinh thái - xã hội.
Điển hình là Đề án Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Duyên hải phía Đông Đồng bằng sông Cửu Long (gồm 4 tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh). Nội dung của Đề án là liên kết về bảo vệ, quản lý, khai thác hiệu quả tài nguyên cát, tài nguyên nước (nước ngọt phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp); xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về phát triển bền vững tiểu vùng; xây dựng các chương trình, dự án chung của tiểu vùng liên quan đến ứng phó, phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển, bảo vệ nguồn nước…
Đề án liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên (gồm 4 tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang) đề xuất các tuyến lĩnh vực mà các địa phương có thể liên kết về quy hoạch, kế hoạch (bố trí không gian phát triển); xúc tiến thương mại nông nghiệp, thủy sản; phát triển du lịch; quản lý nguồn nước, bảo vệ môi trường, đáp ứng đa mục tiêu và thích ứng với hệ thống thông tin vùng; xây dựng thể chế chính sách cho tiểu vùng…
Một số giải pháp thúc đẩy liên kết vùng
Mặc dù đã có nhiều chính sách, chương trình, dự án đầu tư phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng việc triển khai vào thực tế còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách cũng như quy hoạch phát triển vùng.
Đó là khái niệm và cách phân vùng kinh tế chưa thống nhất, chủ yếu phục vụ yêu cầu chỉ đạo, định hướng chính sách và có ý nghĩa thống kê; việc phân vùng còn trùng lắp về địa bàn hành chính như trường hợp của 2 tỉnh Long An và Tiền Giang, vừa nằm trong vùng Đồng bằng song Cửu Long, vừa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Việc tổ chức quản trị vùng và cơ chế phối hợp còn nhiều hạn chế, không gian kinh tế vùng bị chia cắt, xuất hiện một số “xung đột lợi ích” trong ưu tiên phát triển giữa các địa phương, khai thác sử dụng tài nguyên nước; các sản phẩm chủ lực vùng mà các tỉnh có lợi thế chưa được “liên kết” tốt…
Trước những thách thức nêu trên, các chuyên gia Viện Địa lý nhân văn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đề xuất một số giải pháp về liên kết vùng. Cụ thể là hoàn thiện cơ chế điều phối vùng Đồng bằng song Cửu Long nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích phát triển giữa các bên liên quan, giữa các ưu tiên trước mắt với mục tiêu lâu dài giảm thiểu các xung đột lợi ích giữa các địa phương, các tiểu vùng trong khu vực, giữa các lĩnh vực kinh tế.
Đẩy mạnh vai trò liên kết vùng trong việc hoạch định các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng, kết nối sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; hỗ trợ cho các địa phương kỹ thuật trong việc lập quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với thế mạnh của địa phương và có sự liên kết vùng nông nghiệp, du lịch, phát triển nguồn nhân lực, thu hút đầu tư.
Tăng cường thực hiện các chương trình nghiên cứu, điều tra cơ bản tại Đồng bằng song Cửu Long (các hiện tượng xói lở, xâm nhập mặn, điều tra, tìm kiếm nguồn nước dưới đất...), đẩy nhanh tiến độ hoàn thành Trung tâm Tích hợp dữ liệu vùng; xây dựng hệ thống thông tin, quản lý cơ sở dữ liệu về khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu, tạo sự liên kết, phối hợp, điều phối trong hoạt động chung của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Đẩy mạnh thu hút, huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển bền vững, tìm kiếm cơ hội khai thác dòng vốn nước ngoài. Chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh tiến độ thẩm định, phê duyệt và giao vốn đầu tư công cho những công trình, dự án trọng điểm, có quy mô vùng, liên vùng tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững toàn vùng; tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước triển khai thực hiện các dự án.
Mặt khác các địa phương ở Đồng bằng song Cửu Long cần chú trọng xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm trong vùng, đổi mới hoạt động quảng bá, tiêu thụ sản phẩm, tích cực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Khuyến khích các doanh nghiệp, hợp tác xã thành viên đầu tư vào những dự án sản xuất hiện đại, có hàm lượng khoa học công nghệ cao, quy mô lớn, ứng phó với thách thức từ thiên tai và biến đổi khí hậu. Xây dựng đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng các xu hướng dịch chuyển sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường.