Soán ngôi “quán quân” Chỉ số cải cách hành chính - PAR INDEX năm 2019 trong khối bộ, ngành vẫn là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong Hội nghị công bố Chỉ số PAR INDEX tổ chức ngày 19/5, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính cho biết, Ngân hàng Nhà nước đạt số điểm 95,4% và đã có 5 năm liên tiếp giữ vững ngôi vị này.
Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú, trong suốt 10 năm qua, công tác cải cách hành chính của ngành luôn thể hiện sự quyết liệt, mạnh mẽ, liên tục, từ nhận thức đến hành động, từ Thống đốc đến toàn thể cán bộ, công chức và người lao động, thông qua việc chỉ đạo triển khai đồng bộ các lĩnh vực cải cách hành chính.
Nhận thức vị thế trọng yếu, huyết mạch của nền kinh tế, cải cách là xu hướng tất yếu khách quan để ngành ngân hàng làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc điều hành kinh tế vĩ mô và cung ứng vốn, các dịch vụ tiền tệ, thanh toán cho nền kinh tế cũng như nhanh chóng hội nhập và phát triển ngang tầm các ngân hàng trong khu vực và thế giới, Ngân hàng Nhà nước đã mạnh mẽ quyết đoán các chương trình cải cách hành chính trong từng giai đoạn 5 năm, cũng như hàng năm, lựa chọn những mô hình cải cách mới nhất của hoạt động ngân hàng trong nước và trên thế giới phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, hoạch định lộ trình áp dụng rõ đến từng năm và thường xuyên bổ sung các nhiệm vụ cải cách mới với mục tiêu cao hơn.
Quá trình gần 10 năm qua, cải cách hành chính còn thể hiện sự nhất quán không chỉ cải cách trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước, mà yêu cầu triển khai trong toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng. Vì thế, nội hàm trong chiến lược tái cơ cấu của toàn ngành ngân hàng cũng như Đề án tái cơ cấu của các tổ chức tín dụng đều bao gồm nhiều mục tiêu, nội dung, yêu cầu của cải cách hành chính.
Trong lĩnh vực cải cách thể chế, Ngân hàng Nhà nước đã cơ bản hoàn thiện hành lang pháp lý về hoạt động ngân hàng, xử lý nợ xấu về quản lý thị trường vàng, quản lý hoạt động tín dụng, thanh toán của các tổ chức tín dụng...; hoàn thiện khuôn khổ điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá, đáp ứng mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, góp phần giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
“Thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh các lĩnh vực hoạt động ngân hàng đã được cắt giảm mạnh mẽ từ giai đoạn triển khai Đề án 30 năm 2009 đến nay, với hơn 80% thủ tục hành chính được cắt giảm, đơn giản hóa, đáp ứng tốt yêu cầu giao dịch hành chính thuận tiện, minh bạch, tiết giảm chi phí, đối với doanh nghiệp và người dân. Các tổ chức tín dụng mặc dù là doanh nghiệp nhưng có tính chất phục vụ của loại hình kinh doanh dịch vụ tiền tệ cũng được cải tiến, cắt giảm mạnh mẽ các thủ tục, ứng dụng công nghệ số và dịch vụ trực tuyến, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân trong mọi lĩnh vực giao dịch về tiền tệ, tín dụng, thanh toán”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho hay.
Từ kết quả thực hiện Đề án tái cơ cấu và các chương trình cải cách hành chính, cả ngân hàng và doanh nghiệp đều đạt được những lợi ích to lớn, đã thiết lập mối quan hệ cộng sinh hợp tác chặt chẽ, tạo được niềm tin ngày càng vững chắc hơn giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Mọi người dân và doanh nghiệp đều được tiếp cận nhanh chóng, thuận tiện các dịch vụ tài chính, ngân hàng hiện đại, có chất lượng, được chia sẻ lợi ích, được đồng hành lúc thuận lợi và khó khăn. Về phía các ngân hàng cũng có những bước tiến vượt bậc, tăng trưởng mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng, giúp các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng sức cạnh tranh trong nền kinh tế cả trong nước và quốc tế.
Đây cũng là nền tảng và điều kiện giúp các tổ chức tín dụng hiện nay đã và đang triển khai mạnh mẽ các chương trình tín dụng ưu đãi hỗ trợ người dân và doanh nghiệp để khắc phục hậu quả tác động của dịch COVID-19. Bằng nguồn vốn huy động và nguồn lực tài chính, các tổ chức tín dụng đã hoãn, giãn các khoản nợ vay gốc và lãi đến hạn, tiếp tục cho vay mới duy trì sản xuất, cắt giảm lợi nhuận và chi phí nghiệp vụ để có điều kiện giảm lãi suất, giảm phí, hỗ trợ trực tiếp cho người dân và doanh nghiệp trong vay vốn, kể cả nợ cũ và vay mới.
Những cải cách đồng bộ, liên tục và bền bỉ của Ngân hàng Nhà nước cùng với hệ thống các tổ chức tín dụng trong nhiều năm qua, đã kiến tạo môi trường kinh doanh tiền tệ, ngân hàng ổn định, an toàn, hiệu quả, đóng góp quan trọng vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo đà tăng trưởng kinh tế ở mức cao, liên tục trong vòng 10 năm qua. Theo báo cáo hàng năm của Ngân hàng Thế giới, môi trường kinh doanh của Việt Nam có sự cải thiện tích cực, trong đó Chỉ số “Tiếp cận tín dụng” của Việt Nam luôn có sự cải thiện và duy trì thứ hạng cao so với các quốc gia trên thế giới.
Báo cáo về Môi trường kinh doanh 2020 được Nhóm Ngân hàng Thế giới công bố ngày 24/10/2019 cho thấy, chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam tăng 5 điểm và tăng 7 bậc so với năm 2018, đứng thứ 25/190 nền kinh tế (vượt mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP là tăng ít nhất 1 bậc trong năm 2019), đứng thứ 2 trong các nước ASEAN (sau Brunei). Trong đó, chỉ số chiều sâu thông tin tín dụng của Việt Nam đạt điểm tối đa 8/8 điểm. Chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam là một điểm sáng, thể hiện sự quyết tâm của Ngân hàng Nhà nước trong việc chỉ đạo các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp được tiếp cận tín dụng công bằng, minh bạch.
Những kinh nghiệm được Phó Thống đốc Đào Minh Tú nêu lên, đó là Ngân hàng Nhà nước luôn bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về cải cách hành chính và cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp; thường xuyên giám sát, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện của các đơn vị trong toàn ngành để đánh giá sát tình hình, kịp thời quán triệt, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Định kỳ, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, Ban chỉ đạo của ngành đều trực tiếp đi kiểm tra tại các địa phương, đơn vị trong ngành về việc tổ chức triển khai các chương trình, kế hoạch cải cách hành chính.
Ngân hàng Nhà nước cũng tập trung chỉ đạo triển khai toàn diện 6 lĩnh vực cải cách hành chính, trọng tâm vào 3 trụ cột, đó là cải cách hoàn thiện thể chế trong các lĩnh vực hoạt động ngân hàng; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến trên cơ sở hiện đại hóa, đồng bộ hóa hạ tầng cơ sở, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và công chức công vụ nói riêng. Cùng với đó, tiếp cận ứng dụng nhanh công nghệ số, chuyển đổi số trong các lĩnh vực hoạt động ngân hàng; đưa nhiều sản phẩm tiện lợi, an toàn nhất, có nhiều lựa chọn cho doanh nghiệp và người dân trong các lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán; triển khai giải pháp thanh toán điện tử đối với dịch vụ công mức độ 3, 4...