Dự báo, năm 2024 tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều yếu tố rủi ro bất định gây hệ luỵ đến tăng trưởng kinh tế; trong đó, kinh tế Việt Nam không nằm ngoài vòng xoáy tác động.
Để hiểu rõ hơn về cơ hội cũng như những giải pháp nhằm thực hiện thành công toàn diện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê xung quanh nội dung này.
Xin ông cho biết những điểm nổi bật trong bức tranh tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2023?
Nổi bật trong bức tranh tăng trưởng kinh tế năm 2023 đó là khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,83%, thực hiện xuất sắc vai trò quan trọng là nền tảng, trụ đỡ của nền kinh tế, giữ vững ổn định vĩ mô, góp phần kiểm soát thành công lạm phát năm 2023 ở mức 3,25%, làm căn cứ để Chính phủ điều chỉnh giá mặt hàng chiến lược. Ngành nông nghiệp đã ghi dấu ấn đậm nét về năng suất, chất lượng, hiệu quả; tạo điểm sáng nổi bật trong bức tranh thương mại hàng hoá quốc tế.
Bên cạnh đó, năm 2023, thu ngân sách Nhà nước ước tính đạt 1.717,8 nghìn tỷ đồng, vượt 6% dự toán cả năm trong bối cảnh khó khăn, khắc nghiệt của hoạt động sản xuất kinh doanh; bội chi ngân sách nhà nước ở mức 0,14 % GDP, thấp hơn mục tiêu Quốc hội giao 4,42% GDP.
Theo tôi, kết quả thu ngân sách năm 2023 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đó là: đảm bảo cân đối thu - chi, giữ vững ổn định ngân sách nhà nước; tạo dựng nền tảng và cơ sở để phát huy tối đa vai trò quan trọng của chính sách tài khoá nghịch chu kỳ nhằm kích cầu tiêu dùng và đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng; tạo nguồn lực thực hiện chính sách an sinh xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia.
Cùng với đó, bức tranh kinh tế Việt Nam 2023 còn ghi nhận sự đóng góp quan trọng của khu vực doanh nghiệp. Năm 2023, cộng đồng doanh nhân luôn chủ động, linh hoạt, sáng tạo vượt khó, từng bước phục hồi, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong khó khăn, các doanh nghiệp đã đẩy mạnh liên kết nhằm ứng phó với những bất ổn, tăng cường khả năng thích ứng trước các biến động khó lường của kinh tế thế giới, giữ vững năng lực cạnh tranh; đổi mới dây chuyền công nghệ sản xuất; ứng dụng kinh tế số; vượt qua khó khăn, giữ ổn định và phát triển, nâng cao vị thế của doanh nghiệp Việt, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm đạt mức kỷ lục với gần 160 nghìn doanh nghiệp. Con số này được coi là ấn tượng khi gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017-2022 và tăng 4,6% so với ước thực hiện cả năm 2023. Doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt 58.412 doanh nghiệp. Bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Đối với kinh tế Việt Nam, thực hiện giải ngân vốn đầu tư công có ý nghĩa chiến lược, tạo sự lan toả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong trung và dài hạn. Ông đánh giá thế nào về những giải pháp Chính phủ đã thực hiện để phát huy tối đa động lực tăng trưởng này?
Năm 2023, đầu tư công nổi lên là động lực quan trọng, đóng vai trò thúc đẩy, gánh vác và bù đắp cho các động lực tăng trưởng khác; nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo nền tảng thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trong những năm tới.
Ngay từ đầu năm, Chính phủ am hiểu tình hình, đánh giá cụ thể vai trò, mức độ tác động của từng động lực tăng trưởng đối với nền kinh tế. Với tinh thần đổi mới, thẳng thắn đề cập tới những tồn tại trong giải ngân vốn đầu tư công, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt, sát sao, cụ thể trong chỉ đạo giải ngân vốn đầu tư công.
Theo đó, nhiều công trình, dự án trọng điểm, liên vùng, có tác động lan toả được đẩy nhanh tiến độ triển khai. Năm 2023, lần đầu tiên giải ngân vốn đầu tư công đạt kết quả cao nhất về quy mô với 625,3 nghìn tỷ, tăng 21,2 % so với năm trước.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng đóng góp, tạo sự lan tỏa trong tăng trưởng kinh tế. Theo đó, năm 2023, nguồn vốn FDI đã phản ánh sự hiệu quả trong thực thi chính sách kích cầu đầu tư nâng cao năng lực của nền kinh tế với tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài cả năm đạt 36,6 tỷ USD, tăng 32,1% so với cùng kỳ năm 2022. Vốn FDI thực hiện cả năm ước đạt 23,2 tỷ USD, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn FDI thực hiện cao nhất trong 5 năm qua.
Kết quả đăng ký mới và số vốn FDI thực hiện trong bối cảnh đầu tư toàn cầu suy giảm, cùng với đó nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu đang định hình lại và dẫn dắt kinh tế thế giới đã đến Việt Nam tìm hiểu cơ hội và đầu tư là minh chứng về niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường sản xuất kinh doanh ổn định, đầy tiềm năng, mở ra động lực tăng trưởng mới cho kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh những điểm sáng, theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, kinh tế Việt Nam 2023 vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, theo ông đó là những bất cập gì?
Bức tranh kinh tế - xã hội Việt Nam 2023 sẽ sắc nét hơn, ấn tượng sâu đậm hơn nếu như một số bất cập về thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh được tháo gỡ kịp thời; nếu doanh nghiệp không phải đối mặt với khó khăn từ dòng tiền và thủ tục hành chính.
Đặc biệt, nếu một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý từ Trung ương đến địa phương nâng cao tinh thần trách nhiệm, không đùn đẩy, né tránh, bớt vô cảm với những khó khăn của doanh nghiệp và người dân, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả giải ngân vốn đầu tư công. Thật khó biện minh về tinh thần trách nhiệm người đứng đầu của 21 Bộ, cơ quan Trung ương và 33 địa phương khi đến tháng 11/2023 còn chưa phân bổ hết kế hoạch vốn năm 2023 đã được Thủ tướng Chính phủ giao ngay từ đầu năm.
Đối với kinh tế nước ta, nếu giải ngân vốn đầu tư công tăng thêm 10% so với năm trước sẽ làm GDP tăng thêm 0,58 điểm phần trăm. Theo IMF, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam có thể tăng thêm 23% nếu nâng hiệu suất quản lý bằng các nước đi trước; đồng thời nếu hiệu suất sử dụng vốn đầu tư tăng 1 điểm phần trăm thúc đẩy GDP tăng thêm 0,1-0,12 điểm phần trăm. Nếu nâng hiệu xuất quản lý và sử dụng vốn đầu tư sẽ thúc đẩy GDP tăng thêm từ 2,3% - 2,76%.
Có thể thấy, nếu như đầu tư công được giải ngân nhanh hơn; các dự án công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng sớm hơn; nếu xoá bỏ được tình trạng nhiều dự án trọng điểm chậm tiến độ hàng chục năm so với kế hoạch thì kinh tế nước ta sẽ tăng trưởng nhanh và bền vững trong hàng thập kỷ.
Đặc biệt, tôi lưu ý, bên cạnh điểm sáng trong xuất khẩu hàng nông sản, bức tranh thương mại hàng hoá quốc tế năm 2023 của nước ta xuất siêu cao so với năm trước nhưng không phản ánh sức mạnh thực chất của nền kinh tế mà do sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn, phục hồi chậm, khiến nhu cầu nhập khẩu tư liệu sản xuất giảm, cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều giảm, nhưng kim ngạch nhập khẩu giảm sâu hơn mức giảm của kim ngạch xuất khẩu nên dẫn tới xuất siêu. Nói cách khác, xuất siêu cao của nền kinh tế kém bền vững, chưa thực sự đáng mừng.
Dự báo năm 2024 tăng trưởng của các nền kinh tế hàng đầu thế giới, là đối tác thương mại lớn, quan trọng của nước ta suy giảm so với năm 2023. Trước bối cảnh như vậy, xin ông cho biết, kinh tế nước ta sẽ dựa vào những động lực nào để thúc đẩy tăng trưởng?
Hoạt động kinh tế - xã hội nước ta năm 2024 diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều yếu tố rủi ro bất định; bất ổn địa chính trị, thời tiết cực đoan gây hệ luỵ nghiêm trọng đến an ninh năng lượng, lương thực, đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất; tiêu dùng suy giảm.
Một số tổ chức tài chính, thương mại quốc tế đánh giá chính sách tài khoá và tiền tệ của Việt Nam hỗ trợ nhiều cho nền kinh tế, Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu công nghệ cao đứng thứ tư thế giới.
Năm 2024 tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào "cỗ xe tứ mã" đó là: đổi mới, đảm bảo tính đồng bộ về thể chế và môi trường pháp lý cho phát triển kinh tế; thúc đẩy tiêu dùng của thị trường trong nước với quy mô 100 triệu dân và hàng chục triệu khách du lịch quốc tế; thực hiện nhanh, hiệu quả vốn đầu tư công, tạo lan toả tới đầu tư ngoài nhà nước để nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế; thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Cùng với bốn động lực kéo "cỗ xe" kinh tế Việt Nam về phía trước, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế; phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh; đầu tư khu vực ngoài nhà nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài; tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu của một số ngành, lĩnh vực mới như chíp bán dẫn, công nghệ cao, năng lượng tái tạo là những động lực mới, trở thành trụ cột cho phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế nước ta trong thời gian tới.
Để thực hiện thành công toàn diện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 với mục tiêu tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước từ 6% - 6,5%, theo ông, Chính phủ sẽ thực hiện những gì để đạt mục tiêu?
Để GDP năm 2024 tăng 6% - 6,5%, dự kiến khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng khoảng 3% - 3,2%, thấp hơn 0,63-0,8 điểm phần trăm so với năm 2023; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,2%- 6,9%, cao hơn 2,46- 3,16 điểm phần trăm so với năm 2023; khu vực dịch vụ tăng 6,7% - 7,1% cao hơn 0,28 điểm phần trăm. Đây là các mức tăng không dễ đạt được khi khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đã tăng rất cao trong năm 2023.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm, thương mại toàn cầu bấp bênh và bi quan tác động rất mạnh tới sự phục hồi và tăng trưởng cao của khu vực công nghiệp. Tổng cầu tiêu dùng trong nước còn yếu khó thúc đẩy khu vực dịch vụ tăng cao. Tăng trưởng từ đầu tư công chỉ bù đắp được một phần cho các khu vực khác của nền kinh tế.
Để thực hiện thành công toàn diện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước tạo đà thuận lợi phấn đấu đạt cao nhất các mục tiêu theo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, tạo thế và lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tiếp theo, thiết nghĩ, Chính phủ và các địa phương cần thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương khẩn trương đánh giá những tồn tại, bất cập, thách thức đang cản trở các nhóm động lực tăng trưởng hiện nay, đặc biệt đối với nhóm thể chế và môi trường pháp lý, từ đó, đưa ra các giải pháp tháo gỡ nhằm phát huy tối đa sức mạnh, tính hiệu quả của từng nhóm động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, Chính phủ và các địa phương cần xây dựng kịch bản tăng trưởng chi tiết dựa trên năng lực cụ thể của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương; khơi thông các nguồn lực, gắn tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm của thủ trưởng các bộ, ngành, lãnh đạo các địa phương. Chính phủ tiếp tục phát huy tinh thần khẩn trương, sát sao, cụ thể trong chỉ đạo điều hành, thực thi nghiêm chế tài đối với cán bộ công chức vô trách nhiệm.
Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ, trong đó ưu tiên thực hiện chính sách tài khoá hợp lý hỗ trợ tăng trưởng; điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng và các chính sách khác.
Cùng với đó, nỗ lực giải quyết các điểm nghẽn, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; tiếp tục thúc đẩy các động lực tăng trưởng. Đặc biệt, Chính phủ cập nhật, điều chỉnh kịp thời các giải pháp phù hợp với thay đổi của kinh tế thế giới nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển sản xuất.
Ngân hàng Nhà nước cần kiên định thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất phù hợp, hài hoà với nhu cầu, đảm bảo lợi ích của các thực thể có liên quan trong nền kinh tế, giữ giá trị Việt Nam đồng, giảm áp lực lạm phát tiền tệ đối với nền kinh tế; điều chỉnh tỷ giá linh hoạt nhằm ổn định giá nguyên vật liệu nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
Đầu tư công tiếp tục là động lực quan trọng, thực hiện vai trò thúc đẩy, gánh vác và bù đắp tăng trưởng cho các động lực khác. Chính phủ và các địa phương cần đổi mới công tác lập, phân bổ kế hoạch và thẩm định dự án đầu tư công để mỗi dự án trở thành công trình hiệu quả.
Tôi cũng cho rằng, chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu có vai trò quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hoá và định hình lại chuỗi cung ứng. Do đó, Chính phủ khẩn trương nắm bắt các ngành, lĩnh vực nào sẽ trở thành xu hướng phát triển của kinh tế thế giới trong thời gian tới, kịp thời sửa đổi và bổ sung Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu để đưa kinh tế Việt Nam hoà vào dòng chảy, thuộc nhóm đi tiên phong trên một số lĩnh vực của kinh tế thế giới.
Cùng với đó, Chính phủ chủ động xây dựng và thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn. Điện là loại năng lượng quan trọng, không thể thiếu trong sản xuất và tiêu dùng. Chính phủ dự báo nhu cầu, xây dựng kế hoạch, nhanh chóng thực thi các giải pháp đảm bảo cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Ngoài ra, cộng đồng doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ, đầu tư và sử dụng công nghệ, trang thiết bị tiết kiệm năng lượng; tập trung đầu tư chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo như điện mặt trời lắp đặt trên mái nhà xưởng sản xuất để chủ động ứng phó với các biến động không thuận về năng lượng, cắt giảm chi phí do giá năng lượng tăng cao.
Với phương châm bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả, với năng lực và kinh nghiệm trong điều hành của Chính phủ cùng sự đồng hành kịp thời, hiệu quả của Quốc hội; với tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đương đầu với khó khăn, thách thức của cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế Việt Nam sẽ hoá giải được những khó khăn, bất cập, đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội năm 2024 đã được Quốc hội thông qua.
Xin cám ơn ông!