Do đó, để xuất khẩu bền vững buộc doanh nghiệp Việt Nam phải đổi sang phát triển sản xuất xanh, ứng dụng công nghệ tiêu chuẩn cao để đảm bảo cung cấp sản phẩm xanh, sạch, đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật và môi trường của EU và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng bền vững của thị trường này.
Nhận định xung quanh vấn đề này, ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho hay, phát triển bền vững là một chương nằm trong Hiệp định EVFTA và đề cập tới hai lĩnh vực là môi trường và lao động. Về môi trường, Hiệp định EVFTA đề cập đến bốn khía cạnh chính gồm biến đổi khí hậu; đa dạng sinh học; quản lý rừng bền vững và thương mại lâm sản; quản lý phát triển, bảo tồn các sinh vật biển và nuôi trồng thủy sản.
Cũng theo ông Ngô Chung Khanh, đối với cơ chế thực thi, Hiệp định EVFTA không giống hiệp định thương mại thông thường mà có yếu tố rất quan trọng về phát triển bền vững nên doanh nghiệp muốn xuất khẩu sang EU cần quan tâm tới những vấn đề mà hiệp định này đã nêu. Hơn nữa, EVFTA cũng là hiệp định đầu tiên có cơ chế thực thi khá rõ ràng.
Hai bên đồng ý thiết lập một ủy ban về phát triển bền vững. Cùng đó, đại diện của Chính phủ, cơ quan quản lý của hai bên thường xuyên hàng năm hoặc định kỳ gặp gỡ để rà soát tiến trình thực thi; trong đó, nêu ra những kinh nghiệm cũng như vấn đề cần xử lý.
Ngoài ra, EU sẽ có những quy định về môi trường hay về vấn đề lao động. Chẳng hạn như cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), hay những vấn đề liên quan đến chống phá rừng và sắp tới là đạo luật chuỗi cung ứng.
Theo đó, các quy định thông thường không đánh vào nhà xuất khẩu mà chủ yếu là vào nhà nhập khẩu, tức là chính đánh vào các chủ thể của EU. Đặc biệt, các chủ thể này phải có trách nhiệm quản lý chuỗi cung ứng của mình để đảm bảo yêu cầu do EU đặt ra.
Ông Ngô Chung Khanh cũng lưu ý doanh nghiệp, hiện nay xu hướng người tiêu dùng EU càng ngày càng quan tâm đến việc làm ra sản phẩm có ảnh hưởng đến môi trường và bền vững hay không, đối xử người lao động như thế nào…
Bà Nguyễn Hồng Loan, - Chuyên gia Dự án Hỗ trợ kỹ thuật về đánh giá tác động của CBAM chia sẻ thêm, EU vốn là thị trường có tiêu chuẩn liên quan đến môi trường rất cao và quy định của EU với sản phẩm trong nước liên quan đến môi trường đã được quy định từ rất sớm, từ những năm 1987.
Tuy nhiên, gần đây, các quy định này được quy định chặt chẽ hơn, tăng tốc hơn, bắt đầu từ việc EU phê duyệt Thỏa thuận xanh với mục tiêu giảm 55% phát thải khí nhà kính vào năm 2030 so với năm 1990 và hướng tới mục tiêu rất tham vọng là đạt được phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Cùng với quy định này, EU còn đưa ra các đề xuất khác nhau, toàn diện trong tất cả các lĩnh vực để đảm bảo đạt được mục tiêu bao trùm tất cả các lĩnh vực từ nông, lâm nghiệp, thủy sản, giao thông vận tải, hàng không. Do đó, khi áp dụng với hàng hóa EU sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi cung ứng với sản phẩm xuất khẩu sang EU như của Việt Nam.
Đặc biệt, quy định gần đây được phê duyệt vào tháng 5/2003 và chính thức có hiệu lực từ ngày mùng 1/10 năm nay là CBAM của EU đã đưa định giá carbon của EU để áp với các sản phẩm xuất khẩu. Thế nhưng, EU cũng đưa ra lộ trình để doanh nghiệp có thời gian chuyển tiếp từ nay đến năm 2026 và tỉ lệ phải chi trả chứng chỉ CBAM cũng sẽ tăng dần từ năm 2026 đến năm 2034.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập - Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhấn mạnh: Những tiêu chuẩn xanh hay bền vững của EU sẽ bao trùm tất cả những sản phẩm được xem là thế mạnh của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU như: nông thủy sản, đồ gỗ, dệt may, da giày…Vì vậy, số lượng, phạm vi doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn.
Đây cũng là thách thức với doanh nghiệp trong nước bởi tiêu chuẩn này không phải đặt ra, sau đó tuân thủ là xong mà đây là một chuỗi những thay đổi và xanh dần, bền vững dần. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp muốn tuân thủ phải thường xuyên theo dõi mới đảm bảo được. Cuối cùng, việc thích ứng với những tiêu chuẩn này đòi hỏi nỗ lực, nhận thức và chi phí rất lớn với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ông Vương Đức Anh - Chánh Văn phòng HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) chia sẻ, Vinatex xác định phát triển bền vững sẽ là câu chuyện về chiến lược đường dài mà không thể một sớm một chiều, ngay lập tức chuyển đổi toàn bộ. Vì vậy, doanh nghiệp phải bám sát theo yêu cầu của khách hàng, cũng chính là yêu cầu của thị trường.
Đặc biệt, khi nhu cầu tiêu thụ dệt may trong năm 2023 và cả năm 2024 dự báo sẽ còn thấp, khi các nước tiêu thụ lớn vẫn đang thắt chặt chi tiêu doanh nghiệp phải nhìn nhận lại, tận dụng thuận lợi trước mắt khi khách hàng vẫn ưu tiên các sản phẩm phổ thông trước. Tất nhiên, EU vẫn bám theo mục tiêu cuối cùng là đến năm 2030 sử dụng 50% nguyên liệu tái chế nhưng ở thời điểm này đang chậm nhịp lại, Việt Nam cũng phải chậm nhịp lại.
Về phía Vinatex, Tập đoàn đang tập trung đào tạo nhân sự cho chiến lược phát triển bền vững, thay đổi nhận thức, trang bị những hiểu biết, thông tin cho nhân lực. Đặc biệt, việc tổ chức sản xuất thử nghiệm với mặt hàng phát triển bền vững thực sự sẽ rất tốn kém song cũng cần cân đối vì phát triển bền vững chắc chắn là mục tiêu nằm trong chiến lược trung và dài hạn. Các giải pháp cũng linh hoạt và đáp ứng theo yêu cầu của thị trường.