Mỹ và NATO có thể là chỗ dựa trong một cuộc xung đột ngắn, nhưng cả hai đều không thể hỗ trợ một cuộc chiến kéo dài vì không có đủ thiết bị trong kho vốn đã cạn kiệt và sẽ mất rất nhiều thời gian để chế tạo phần cứng thay thế.
Vấn đề này có thể học từ quá khứ, từ thời kỳ nước Mỹ bắt đầu thiết lập kế hoạch để tăng cường năng lực chế tạo vũ khí.
Sản xuất thời chiến
Năm 1939, chính quyền Tổng thống Roosevelt, với sự ủng hộ của Quốc hội, đã thông qua Đạo luật Huy động Bảo vệ, từ đó dẫn đến thành lập Ban Sản xuất Chiến tranh, Văn phòng Quản lý Sản xuất, nhằm thống nhất ngành công nghiệp Mỹ để chống lại Đức Quốc xã và Nhật Bản.
Năm 1941, Tổng thống Mỹ ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia không giới hạn, trao cho chính quyền quyền lực để chuyển sản xuất công nghiệp dân sự sang yêu cầu quân sự. Từ năm 1940 đến 1945, Mỹ cung cấp gần 2/3 tổng số vật tư chiến tranh cho các đồng minh (bao gồm cả Liên Xô và Trung Quốc) và cho các lực lượng của Mỹ. Cụ thể sản xuất khoảng 297.000 máy bay, 193.000 khẩu pháo (tất cả các loại) và 86.000 xe tăng (hạng nhẹ, hạng trung và nặng).
Nhưng ngày nay Mỹ và các đối tác NATO đều phải đối mặt với các vấn đề về nguồn cung khi cuộc chiến ở Ukraine ngày càng nghiêm trọng. Mỹ và châu Âu đứng trước rủi ro vì ngày càng phụ thuộc vào nguồn cung cấp công nghệ cao từ châu Á. Nguồn cung bị tắc nghẽn nghiêm trọng, thiếu hụt và gặp rủi ro.
Hoạt động mua sắm hàng hóa quốc phòng của Mỹ và châu Âu diễn ra theo từng đợt, không liên tục. Kinh phí được cấp để mua một số lượng thiết bị quốc phòng nhất định. Khi hợp đồng được hoàn thành và không có giao dịch mua tiếp theo ngay lập tức, dây chuyền sản xuất sẽ ngừng hoạt động và các nhà cung cấp linh kiện cấp hai và cấp ba cũng ngừng sản xuất - hoặc họ chuyển sang làm việc cho các dự án khác hay ngừng kinh doanh.
Điều này có nghĩa là nếu sau này có đơn đặt hàng mới, mạng lưới nhà cung cấp và dây chuyền sản xuất sẽ phải bắt đầu gần như lại từ đầu. Ngoài sự mất mát về cơ sở hạ tầng cho một số loại vũ khí, còn có sự mất mát liên quan đến các công nhân và kỹ sư tay nghề cao.
Đô đốc Sir Tony Radkin, Tham mưu trưởng Bộ Quốc phòng Anh, nói rằng "năng lực công nghiệp để lấp đầy kho vũ khí" đã trở thành "một vấn đề quan trọng" vì tỷ lệ tiêu hao vũ khí ở Ukraine.
Trong đạo luật chiến tranh gần đây để hỗ trợ Ukraine, Quốc hội Mỹ đã trích lập thêm 9 tỷ USD để bù đắp vào kho dự trữ chiến tranh. Tập đoàn Raytheon đã có một hợp đồng mới trị giá 634 triệu USD để tái cung cấp tên lửa Stinger cho Ukraine, nhưng Raytheon chỉ ra rằng họ không thể bắt đầu thực hiện trước năm 2023.
Tại Mỹ, các công ty quốc phòng lớn như Raytheon và Lockheed đều gặp khó khăn nghiêm trọng trong việc tiếp tế cho quân đội. Mỹ đã gửi hơn 1/3 kho dự trữ tên lửa Stinger và Javelin cho Ukraine. Khi Mỹ đẩy ngày càng nhiều vũ khí sang Ukraine trong cuộc chiến ủy nhiệm với Nga, các hạng mục cung cấp quân sự quan trọng sẽ bị ảnh hưởng.
Không tính tên lửa vác vai Stinger và Javelin, Mỹ đã chuyển giao 18 pháo cỡ 155mm với 36.000 viên đạn, hai Hệ thống Phòng thủ Bờ biển Harpoon, hàng nghìn bộ kính ngắm ban đêm cho quân đội Ukraine, 700 máy bay không người lái Switchblade, 75.000 bộ áo giáp với mũ bảo hiểm Kevlar, thiết bị phòng thủ hóa học sinh học và nhiều thứ nữa.
Quốc hội Mỹ gần đây đã thông qua và Tổng thống đã ký Đạo luật Chiếm đoạt bổ sung trị giá 40 tỷ USD của Ukraine, trong đó cung cấp thêm 14 tỷ USD cho vũ khí và vật tư nhân đạo cho Ukraine.
2 mối nguy hiểm lớn
Có hai mối nguy hiểm lớn đối với Mỹ và NATO. Thứ nhất, không có đủ thiết bị trong kho để theo kịp tốc độ hỗ trợ Ukraine nếu chiến tranh kéo dài hơn nữa, ngay cả khi có đơn đặt hàng thiết bị mới trong “đường ống” (chuỗi sản xuất chiến tranh).
“Đường ống” có thể không thể đáp ứng kịp nhu cầu do cần thời gian dài để sản xuất vũ khí mới. Nếu chiến tranh lan rộng ra ngoài lãnh thổ Ukraine, NATO còn phải đối mặt với thách thức to lớn trong việc bảo vệ một vùng lãnh thổ rộng lớn với ít vũ khí.
Không có dấu hiệu nào cho thấy tình trạng thiếu thiết bị như vậy có thể được khắc phục trong vài năm tới, ngay cả khi có ý chí làm như vậy. Một số chính phủ châu Âu đã bắt đầu "thức tỉnh" về chi tiêu quốc phòng. Tuy nhiên, việc sản xuất vũ khí ở châu Âu cũng diễn ra rất chậm, ngay cả so với Mỹ.
Nguy hiểm thứ hai là nếu giao tranh nổ ra ở các khu vực khác trên thế giới, như bán đảo Triều Tiên, điều này có thể tạo ra gánh nặng gần như không thể chịu đối với Mỹ. Hiện đã có tình trạng thiếu hụt quân sự nghiêm trọng cho các lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc và Nhật Bản.
Tính toán khôn ngoan
Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ dường như chưa chú tâm đến rủi ro lớn mà họ phải đối mặt khi một cuộc chiến tranh ủy nhiệm ở Ukraine có thể lan rộng ra ngoài biên giới của nước này, gây ảnh hưởng xa hơn như tới Đông Âu, Đức.
Có lẽ các nhà làm chính sách của Washington có lẽ yên tâm rằng Nga đã tốn kém một lượng lớn thiết bị và nhân lực. Đúng là việc Nga thiếu cơ sở hạ tầng công nghiệp thương mại và công tác quản lý chiến đấu, đã khiến họ rơi vào một lỗ hổng. Nhưng không ai biết lỗ hổng đó lớn thế nào. Hiện tại, Nga đang chứng tỏ rằng họ có một kho pháo hạng nặng và tên lửa khổng lồ, ngay cả khi lực lượng thiết giáp cơ giới đã cạn kiệt.
Một cuộc chiến lan rộng có thể nhanh chóng tiêu hao những gì mà NATO và Mỹ có, và một cuộc chiến quy ước có vũ khí pháo hạng nặng sẽ tàn phá châu Âu.
Ngoài ra, nếu bị ép quá mạnh, quân đội Nga có thể sẽ bắt đầu đòi quyền sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật.
Đó là một lý do thuyết phục khác để phương Tây suy tính lại chính sách "khiến Nga chảy máu”. Chính sách đó đẩy nguy cơ xảy ra chiến tranh quy mô khu vực lên mức cao chưa từng có và làm tăng nguy cơ sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt.