Trước thềm chuyến thăm, giới chức Mỹ tuyên bố chuyến công du của bà Harris nhằm “tái khẳng định cam kết của Mỹ với các đồng minh trong một môi trường an ninh ngày càng phức tạp”, đồng thời “làm sâu sắc sự can dự tổng thể của Mỹ với các nước tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”.
Trong chuyến thăm Nhật Bản, bà Harris đã thay mặt Tổng thống Biden tri ân ông Abe, nhà lãnh đạo cầm quyền lâu nhất trong lịch sử “đất nước Mặt Trời mọc” qua đời trong một vụ mưu sát, để lại một di sản đồ sộ cả về đối nội (chính sách kinh tế Abenomics) và đối ngoại, như đề xuất thiết lập khuôn khổ Đối thoại An ninh bốn bên (nhóm Bộ Tứ - QUAD) giữa Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ, đồng thời là kiến trúc sư trưởng của khái niệm “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở” nổi tiếng mà sau này cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump đã kế thừa. Trong cuộc gặp Thủ tướng Fumio Kishida tại Cung điện Akasaka (Nhà khách Chính phủ), bà Harris đã nêu bật vai trò của cố Thủ tướng Abe trong việc tăng cường quan hệ Mỹ-Nhật, nhấn mạnh liên minh giữa hai nước là nền tảng không thể thiếu đối với hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Bà khẳng định cam kết của Mỹ trong việc bảo trợ an ninh cho Nhật Bản là "không gì lay chuyển", với việc Mỹ duy trì 55.000 binh sĩ đồn trú tại quốc gia Đông Bắc Á này.
Về phần mình, Thủ tướng Kishida cũng khẳng định sẽ tiếp bước ông Abe trong việc củng cố quốc phòng, tăng cường hơn nữa quan hệ đồng minh với Mỹ và thúc đẩy hiện thực hóa mục tiêu chung về một "Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở" trước sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc.
Theo giới phân tích, sự đồng thuận mà lãnh đạo hai nước đạt được rất có ý nghĩa trong bối cảnh các đồng minh châu Á, trong đó có Nhật Bản, đang rất muốn Mỹ làm rõ lập trường sau những thông điệp trái chiều về khả năng điều động quân đội tới hỗ trợ đồng minh trong trường hợp xảy ra xung đột ở khu vực.
Với Nhật Bản, dư địa để Mỹ thúc đẩy hợp tác, tăng cường quan hệ đồng minh khá rộng, bao trùm trên các lĩnh vực, từ kinh tế, thương mại đến xử lý các vấn đề nóng, điểm nóng của khu vực và toàn cầu… Tuy nhiên, việc hai bên phối hợp đảm bảo nguồn cung chip bán dẫn được đánh giá là lĩnh vực hợp tác rất thực chất vào thời điểm hiện nay trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do dịch COVID-19, xung đột tại Ukraine tác động mạnh đến hoạt động sản xuất công nghệ cao của hai nước. Trong chuyến thăm, bà Harris đã mời gọi các doanh nghiệp Nhật Bản liên quan đến chất bán dẫn, như Sanken Electric, Tokyo Electron, Hitachi High-Tech, Fujitsu và Nikon, đầu tư vào ngành công nghiệp bán dẫn của Mỹ giữa lúc chính quyền Biden đang nỗ lực thúc đẩy ngành công nghiệp chip nội địa nhằm tránh lệ thuộc vào nguồn cung bán dẫn của nước ngoài, trong đó có việc ban hành Luật Chip và Khoa học vào tháng 8, đưa ra những ưu đãi hậu hĩnh đối với doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này.
Chuyến thăm của Phó Tổng thống Mỹ tới Đông Bắc Á diễn ra giữa lúc tình hình khu vực đang rất nóng khi Mỹ - Hàn tiến hành tập trận hải quân rầm rộ với sự góp mặt của nhóm tác chiến tàu sân bay USS Ronald Reagan. Trước và trong chuyến thăm của bà Harris, Triều Tiên liên tục các vụ phóng tên lửa đạn đạo tầm ngắn ra vùng biển phía Đông trong các ngày 25/9 và 28/9.
Trong bối cảnh đó, bà Harris đã tận dụng cuộc gặp Thủ tướng Hàn Quốc Han Duck-soo tại Nhật Bản ngày 27/9 và cuộc gặp Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol ngày 29/9 để tái khẳng định sự vững chắc của quan hệ đồng minh Mỹ - Hàn, coi đây là trụ cột quan trọng của an ninh, thịnh vượng trên bán đảo Triều Tiên, cũng như khu vực và toàn cầu. Chuyến thăm của bà là cơ hội tốt để thể hiện ý chí của hai nước và củng cố mối quan hệ đồng minh ngày càng bền chặt. Việc bà Harris trở thành quan chức cấp cao nhất trong chính quyền Biden đến Khu phi quân sự (DMZ) chia tách hai miền Triều Tiên là minh chứng cho cam kết của Mỹ đối với an ninh và hòa bình trên bán đảo Triều Tiên.
Trên thực tế, liên minh Mỹ - Hàn đang phát triển vượt ra ngoài Bán đảo Triều Tiên trở thành liên minh toàn cầu, mở rộng từ liên minh quân sự sang liên minh kinh tế và công nghệ. Tuy nhiên, một yếu tố tiềm ần gây tổn hại quan hệ hai nước là Luật Giảm lạm phát (IRA) mà Mỹ vừa thông qua, được cho sẽ gây tổn hại lớn đến ngành sản xuất ô tô điện của Hàn Quốc vì loại các xe điện lắp ráp bên ngoài khu vực Bắc Mỹ khỏi các ưu đãi về thuế. Mặc dù Mỹ cam kết giải quyết mâu thuẫn về thương mại liên quan đến IRA, nhưng sẽ khó có giải pháp thỏa đáng trong ngắn hạn. Hàn Quốc coi một số điều khoản liên quan đến thuế xe điện vừa vi phạm các quy tắc thương mại, vừa đi ngược lại quan hệ đối tác kinh tế ngày càng sâu sắc giữa hai nước. Đây là vấn đề được Seoul nêu khá gay gắt trong chuyến thăm của bà Harris, cũng như các cuộc làm việc cấp thấp hơn khác, bởi Hàn Quốc cho là bị phía Mỹ “phản bội”.
Theo giới quan sát, một sứ mệnh quan trọng khác của bà Harris trong chuyến đi lần này là giúp hàn gắn mối quan hệ đầy trắc trở giữa hai đồng minh quan trọng nhất của Mỹ ở Đông Bắc Á là Nhật Bản và Hàn Quốc. Dẫu còn tồn tại bất đồng dai dẳng về lịch sử và tranh chấp lãnh thổ, nhưng lãnh đạo hai nước láng giềng này đã có những dấu hiệu nỗ lực cải thiện quan hệ, cho dù chậm rãi. Bên cạnh đó, một nội dung quan trọng trong các cuộc tiếp xúc của bà Harris với lãnh đạo Nhật Bản, Hàn Quốc cũng như cuộc gặp Thủ tướng Australia Anthony Albanes bên lề đám tang ông Abe là tăng cường liên minh an ninh thông qua các cơ chế song phương và đa phương (QUAD) để sẵn sàng đối phó với các thách thức hiện nay, trong đó có chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên.
Tam giác quan hệ Mỹ - Nhật - Hàn là một trong những trục quan hệ quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Các cụm từ “trụ cột”, “nền tảng” được bà Harris sử dụng nhiều lần để mô tả liên minh song phương hoặc ba bên Mỹ - Nhật - Hàn. Chuyến công du của bà Harris mang tính biểu tượng cao, theo đó Mỹ muốn khẳng định Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn là ưu tiên chính sách đối ngoại của Mỹ tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong bối cảnh Mỹ đang phải dàn trải nguồn lực cho những thách thức đối ngoại khác. Ngoài ra, chuyến đi còn nhằm tìm kiếm sự ủng hộ trong nước đối với chính quyền Tổng thống Biden và đảng Dân chủ liên quan đến chính sách đối ngoại trước thềm bầu cử quốc hội giữa nhiệm kỳ vào tháng 11 tới.