Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo từng lưu ý rằng, chính sách đối ngoại của chính quyền Tổng thống Donald Trump dựa trên “chủ nghĩa hiện thực, tự kiểm soát, và tôn trọng”. Theo đó, Tổng thống Trump muốn “Mỹ trở thành một hình mẫu” và đây chính là mô hình ngoại giao mà chính quyền Tổng thống Trump xây dựng.
Cũng theo ông Pompeo, Tổng thống Trump đang thiết lập các liên minh nhằm phục vụ các lợi ích cơ bản của Mỹ.
Căn cứ vào phát biểu này, có thể hiểu Washington theo đuổi chính sách đối ngoại dựa trên cách tiếp cận “thận trọng” nhằm bảo vệ lợi ích của Mỹ, trong đó chính quyền Tổng thống Trump đã và đang nỗ lực hạn chế sự dàn trải sức mạnh ở nước ngoài, tránh phiêu lưu trong các cuộc chiến không có mục tiêu rõ ràng.
Như vậy, chính sách Trung Đông kể từ khi Tổng thống Trump nhậm chức cũng nằm trong chủ trương cốt lõi này, thể hiện ở những bước điều chỉnh cả về hoạch định lẫn triển khai chính sách đối với từng hồ sơ cụ thể.
Tổng thống Trump ra tranh cử với lời hứa giảm bớt sự can thiệp quân sự của Mỹ ở nước ngoài, trong đó có việc rút lực lượng Mỹ khỏi khu vực Trung Đông, như ông nói là “rút khỏi các cuộc chiến ở những nơi xa xôi mà nước Mỹ đang sa lầy”. Ông Trump cũng nhiều lần chỉ trích chính sách của người tiền nhiệm Barack Obama tại Trung Đông với lý lẽ rằng chính sách của ông Obama khiến Trung Đông rối loạn, làm tổ chức “Nhà nước Hồi giáo” (IS) tự xưng xuất hiện.
Một cuộc khảo sát gần đây của Trung tâm Phát triển Mỹ cho thấy người dân Mỹ muốn các nhà lãnh đạo tập trung vào việc xây dựng đất nước và “can dự có kiểm soát” trên toàn cầu. Một công thức như vậy rất trùng khớp với phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ Pompeo về chính sách đối ngoại hiện nay, hay những tuyên bố của chính Tổng thống Trump về việc rút lực lượng Mỹ khỏi Trung Đông.
Tuy nhiên, sau 3 năm Tổng thống Trump đảm nhiệm cương vị người đứng đầu nước Mỹ, có quá nhiều dẫn chứng để dư luận cho rằng chính sách của ông trong vấn đề Trung Đông không rõ ràng, thiếu đồng nhất.
Nói cách khác, cách tiếp cận của chính quyền Tổng thống Trump trong vấn đề Trung Đông hiện nay đang tương phản cả với công thức “can dự có kiểm soát”, cả với những gì ông Trump đã cam kết.
Đối với hồ sơ Syria, mục tiêu của Mỹ đang bị xem là “bất khả thi”, nếu xét việc Washington đầu tư ít cho mục tiêu này trong khi Tổng thống Trump lại liên tục tỏ ý “rút lui toàn bộ” khỏi Syria. Các quan chức Mỹ gần đây xác nhận rằng mục tiêu của Mỹ ở Syria bao gồm loại bỏ “mọi lực lượng do Iran hậu thuẫn” và hoàn thành một tiến trình chính trị nhằm buộc Tổng thống Bashar al-Assad phải ra đi.
Cả hai mục tiêu đều khó đạt được trên thực tế, kể cả khi huy động một lực lượng quân đội lớn đến Syria - điều mà Washington sẽ không làm nếu thực sự muốn tránh nguy cơ sa lầy thêm lần nữa tại Trung Đông, hoặc sử dụng những phương thức khác như Mỹ đã dùng, bao gồm không kích các vị trí của quân đội Syria hay cáo buộc quân đội Syria sử dụng vũ khí hóa học.
Một loạt quyết định mới nhất của Tổng thống Donald Trump trên “bàn cờ” địa - chính trị Syria được đánh giá là “thảm họa” về chính trị và chiến lược. Đơn cử như việc Tổng thống Trump tuyên bố rút quân khỏi Đông Bắc Syria bị coi là “bật đèn xanh” để Thổ Nhĩ Kỳ đưa quân tấn công người Kurd, vốn là các đồng minh đắc lực của Washington trong cuộc chiến chống IS.
Động thái của Mỹ không chỉ khiến hồ sơ Syria trở nên phức tạp và còn khiến các đồng minh hoài nghi về những cam kết an ninh của Mỹ. Trong trường hợp này, chính sách của Mỹ đã dẫn tới leo thang căng thẳng và tạo ra nhiều mối đe dọa tiềm ẩn ở khu vực, bao gồm cả nguy cơ tàn quân IS trỗi dậy.
Đối với hồ sơ Iran, chính quyền Tổng thống Trump có nhiều thay đổi so với thời cựu Tổng thống Barack Obama, đặc biệt là việc “đảo ngược” một trong những “dấu ấn thành công” cho nhiệm kỳ Tổng thống của ông Obama: đạt được thỏa thuận hạt nhân lịch sử, hay còn gọi là Kế hoạch hành động chung toàn diện (JCPOA) năm 2015 với sự tham gia của Iran và Nhóm P5+1 (gồm 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và Đức). Đến thời Tổng thống Trump, Mỹ đã chính thức rút khỏi JCPOA và tái áp đặt các biện pháp trừng phạt hà khắc đối với Tehran.
Thực tế cho thấy chính sách “gây sức ép tối đa” của Washington nhằm vào Tehran hầu như không đem lại hiệu quả như Mỹ mong muốn, trái lại khiến khu vực trở nên ngày càng bất ổn. Thực tế này đã và đang hiện hữu tại Iraq, nơi dường như trở thành “chiến trường” giữa Mỹ và Iran.
Mới nhất là vụ Mỹ không kích sân bay Baghdad của Iraq khiến Tư lệnh đơn vị Quds thuộc Lực lượng Vệ binh cách mạng Hồi giáo Iran (IRGC) thiệt mạng và Tehran trả đũa với việc tấn công bằng tên lửa vào 2 căn cứ quân sự của Mỹ tại Iraq. Mặc dù một cuộc đối đầu quân sự tạm thời được loại trừ, song chính sách trừng phạt của Mỹ sẽ làm lu mờ triển vọng đàm phán giữa Mỹ với Iran, bởi Tehran cũng có quan điểm khá cứng rắn trong vấn đề này.
Đối với tiến trình hòa bình Israel - Palestine, giới chuyên gia đánh giá chính sách của Tổng thống Trump liên quan đến những vấn đề nhạy cảm trong cuộc xung đột này là “nhiều gậy, ít cà rốt”. Mặc dù Tổng thống Trump từng bày tỏ khi lên nắm quyền rằng bản thân ông nghiêng về hướng rằng cả hai bên Israel và Palestine đều chung sống hòa bình, bao gồm cả giải pháp hai nhà nước, song những diễn biến trong thực tế đang chứng tỏ Tổng thống Trump và đội ngũ chuyên về chính sách Trung Đông của ông tỏ ra không mặn mà với giải pháp hai nhà nước.
Động thái gây tranh cãi nhất là việc Tổng thống Trump tuyên bố công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel và chuyển Đại sứ quán Mỹ tại Israel từ Tel Aviv tới Jerusalem, cũng như việc Mỹ từ bỏ lập trường coi các khu định cư Do Thái là “không phù hợp với luật pháp quốc tế”, đảo ngược chính sách tồn tại nhiều thập niên của Washington về xung đột Israel - Palestine.
Bằng cách thể hiện sự ủng hộ đối với các yêu sách của Israel về các khu định cư Do Thái cũng như công nhận Đông Jerusalem là thủ đô của Israel, chính quyền Tổng thống Trump đang tỏ lập trường thiên vị trong vấn đề này. Việc Tổng thống Trump ra sức ủng hộ Israel cho thấy Washington coi trọng mối quan hệ đồng minh mang lại lợi ích chiến lược cho Mỹ này. Điều đó hoàn toàn khác so với thời của cựu Tổng thống Obama, khi quan hệ Mỹ - Israel phát triển theo chiều hướng xấu đi. Tuy nhiên, chính sách này của Tổng thống Trump lại có khả năng “kích hoạt” xung đột giữa Israel và Palestine, đẩy kế hoạch hòa bình Trung Đông do Mỹ khởi xướng lâm vào bế tắc, khiến vai trò của Washington trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế càng bị nghi ngờ.
Có thể nói chính sách của Mỹ về Trung Đông dưới thời Tổng thống Donald Trump tồn tại nhiều điểm chưa nhất quán, tạo thực trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", gây phức tạp cho cục diện Trung Đông và tác động tiêu cực tới vai trò, vị thế của Mỹ tại khu vực. Những động thái bất ngờ của Tổng thống Trump cũng khiến chính sách của Mỹ tại Trung Đông là một trong những vấn đề khó dự báo.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng dù chính sách của Mỹ đối với khu vực có tiếp tục thay đổi, yếu tố không đổi vẫn là bài toán lợi ích. Các chuyên gia cho rằng Mỹ có thể giảm sự hiện diện quân sự tại Trung Đông, song không đồng nghĩa vai trò của Mỹ suy giảm, bởi Washington sẽ tìm những công cụ khác để duy trì và củng cố ảnh hưởng của mình, từ đó đảm bảo lợi ích chiến lược ở khu vực. Đó có thể là việc xây dựng và mở rộng liên minh trong khu vực, kiềm chế các chính quyền mà Mỹ coi là "đối địch" hay chi phối và kiểm soát nguồn dầu mỏ.
Nói cho cùng, Mỹ sẽ làm mọi cách để bảo vệ và tăng cường lợi ích chiến lược ở Trung Đông trong bối cảnh cuộc cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và các cường quốc, như Trung Quốc và Nga, ngày càng quyết liệt. Chỉ có điều, những toan tính chiến lược này của Mỹ trong nhiều trường hợp đang góp phần tạo ra tình trạng hỗn loạn ở Trung Đông.