Theo trang Nikkei Asia, ngay sau khi các nhà ngoại giao hàng đầu Mỹ-Trung khẩu chiến dữ dội tại Alaska vào cuối tháng 3, các bài báo gây chú ý về vụ đánh bom toà đại sứ ở Belgrade hơn 20 năm trước bắt đầu xuất hiện trên mạng internet ở Trung Quốc.
“Tại sao Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư bị tấn công bằng bom dẫn đường chính xác của Mỹ vào năm 1999?”, một bài báo giật tít.
Mỹ luôn luôn khẳng định rằng vụ đánh bom 22 năm trước là một sự cố và rằng lực lượng NATO dự định ném bom một cơ sở gần đó của Nam Tư (khi đó là nước Cộng hoà liên bang Serbia và Montenegro).
Nhưng những gì thực sự xảy ra đêm đó đã trở thành một chủ đề "nóng" đối với người dân Trung Quốc. Điều kỳ lạ là sau hơn hai thập kỷ, những bí ẩn đằng sau vụ việc lúc này mới được tiết lộ, dường như một cách có chủ đích.
Tranh cãi vụ đánh bom Đại sứ quán Trung Quốc
Tháng 5/1999, Đại sứ quán Trung Quốc bị tấn công bởi 5 quả bom dẫn đường chính xác phóng từ máy bay ném bom tàng hình B-2 của Mỹ. Ba công dân Trung Quốc thiệt mạng và hơn 20 người bị thương. Vụ việc đã làm dấy lên làn sóng chống đối Mỹ và biểu tình giận dữ ở Bắc Kinh.
Bất chấp lời xin lỗi từ Tổng thống Mỹ lúc đó là Bill Clinton, Chính phủ Trung Quốc luôn khẳng định rằng đó không thể là một vụ tấn công nhầm, và rằng quân đội Mỹ đã cố tình thả bom. Tuy nhiên, Bắc Kinh chưa bao giờ đưa ra bất kỳ bằng chứng nào ủng hộ cáo buộc đó là một vụ tấn công có chủ đích.
Tuy nhiên, đến gần đây, các bài báo trên mạng Trung Quốc đã đi sâu vào vấn đề, cho rằng lý do thực sự khiến Đại sứ quán Trung Quốc trở thành mục tiêu là do tại đây cất giữ một mảnh vỡ máy bay chiến đấu tàng hình Mỹ.
Chỉ hơn một tháng trước vụ đánh bom sứ quán, một chiến đấu cơ tàng hình F-117 Nighhawk của Mỹ, được điều động trong cuộc xung đột ở Kosovo, đã bị bắn hạ bởi tên lửa phòng không do Nga sản xuất, được quân đội Nam Tư do Serbia chỉ huy phóng lên.
Các mảnh vỡ của chiếc “Cú đêm” nằm ngổn ngang trên một khu đất nông nghiệp, và một số sau đó được trưng bày tại Bảo tàng Hàng không ở Belgrade. Theo lời Đô đốc Davor Domazet-Loso, khi đó là tham mưu trưởng quân đội Croatia láng giềng, phát biểu với hãng tin AP vào năm 2011, cũng thời điểm đó, các đặc vụ Trung Quốc đã lùng sục khắp khu vực, mua lại các bộ phận của chiếc máy bay từ người dân địa phương.
Bí ẩn xác máy bay trong tầng hầm
F-117 Nighthawk là máy bay chiến đấu tàng hình đầu tiên trên thế giới, được phát triển bởi công ty hàng không vũ trụ Lockheed của Mỹ, nay là Lockheed Martin.
Nghiên cứu phát triển F-117 đã bắt đầu từ những năm 1970, vì thế công nghệ của máy bay này vào thời điểm sự cố không còn là tối tân nhất nữa. Nhưng những mảnh vỡ của nó vẫn có giá trị làm vật liệu nghiên cứu và là tâm điểm chú ý của các nước đối thủ.
"Chúng tôi tin rằng người Trung Quốc đã sử dụng những vật liệu đó để tìm hiểu sâu hơn về các công nghệ tàng hình bí mật", Đô đốc Domazet-Loso trả lời phỏng vấn hãng tin AP vào năm 2011.
Theo các bài báo gần đây của Trung Quốc, Bắc Kinh đã yêu cầu Chính phủ Nam Tư chia sẻ phần còn lại của xác máy bay được thu hồi và sau các cuộc tham vấn, họ đã có được hệ thống dẫn đường, phần thân chính tàng hình và các bộ phận vòi phun động cơ chịu nhiệt.
Những bài báo cũng cho hay, do phải giữ bí mật, rất khó để người Trung Quốc vận chuyển ngay “kho báu” đó bằng đường biển hoặc đường hàng không. Kết quả là, Trung Quốc không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cất giữ chúng tạm thời trong tầng hầm của Đại sứ quán ở Belgrade.
Tuy nhiên, quân đội Mỹ đã phát hiện ra các tín hiệu định vị từ xác máy bay và biết được nơi cất giữ chúng là tầng hầm của toà nhà.
Các bài báo kết luận rằng phi đội máy bay ném bom B-2 đã được Mỹ cử đi để giữ bí mật quân sự không rơi vào tay người Trung Quốc. Một trong những quả bom đã rơi trúng tầng hầm nhưng không phát nổ, để lại đống xác máy bay còn nguyên vẹn.
Phát triển công nghệ tàng hình
Sau đó, Trung Quốc đã dành 10 năm để nâng cấp công nghệ tàng hình của họ và tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về tên lửa dẫn đường bằng laser. Hãng tin AP năm 2011 từng cho rằng công nghệ dùng cho máy bay chiến đấu tàng hình J-20 của Trung Quốc có thể bắt nguồn từ chiếc F-117 Mỹ bị bắn rơi.
Các bài báo gần đây cho rằng, trong hai thập kỷ kể từ vụ đánh bom Đại sứ quán, Trung Quốc đã thu hẹp khoảng cách về sức mạnh quốc gia với Mỹ. Bằng chứng là cuộc gặp gần đây giữa các nhà ngoại giao cấp cao hai nước ở Alaska, Trung Quốc tỏ ra không cần phải sợ bất kỳ quốc gia nào.
Đáng chú ý, các bài báo nói trên không chỉ ra dứt khoát. Khi đề cập đến các sự kiện cốt lõi, họ sử dụng những cụm từ gián tiếp như “được cho là”, hay dựa trên “những phân tích được ủng hộ rộng rãi nhất đang lan truyền trên internet”. Lý do cho điều đó có thể là bởi vì, nếu tất cả là sự thật, thì việc đại sứ quán giấu vật liệu nhạy cảm trong tầng hầm, đã khiến tính mạng của nhân viên gặp rủi ro, ảnh hưởng tới hình ảnh của Trung Quốc.
Trở lại năm 2011, tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc đã phủ nhận giả thuyết đánh cắp công nghệ.
Như vậy, rất khó để xác định phần nào trong các bài báo trên là đúng sự thật và phần nào là suy đoán. Và còn quá sớm để nói rằng các bài báo nói trên đã tiết lộ sự thật về vụ đánh bom Đại sứ quán Trung Quốc năm 1999.
Vì sao vụ việc được xới lại vào lúc này?
Tuy nhiên, sự thay đổi trong lập trường của Trung Quốc là đáng chú ý. Tại nước này, những quan điểm cá nhân về chính trị quốc phòng vốn được kiểm soát chặt chẽ trên mạng. Nhưng các bài báo được đề cập ở trên vẫn được lưu hành, như đã được sự chấp thuận ngầm từ nhà chức trách.
Câu hỏi là tại sao các nhà chức trách Trung Quốc lại “bật đèn xanh” cho những thông tin như vậy trong thời điểm này?
Trước tiên, hầu hết người Trung Quốc đều tin rằng vụ đánh bom đại sứ quán là có chủ ý. Việc tung "bằng chứng" cho lập luận đó càng làm nổi bật những “tội lỗi” trong quá khứ của người Mỹ và đoàn kết người dân trong nước, khi quan hệ với Washington ngày càng xấu đi.
Thứ hai, các nhà chức trách Trung Quốc rõ ràng đang nêu bật sự tiến bộ theo cấp số nhân trong các công nghệ quân sự của nước này kể từ "sự sỉ nhục ở Belgrade".
Kết quả là các bài báo được đưa ra trước thềm kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc vào ngày 1/7.
Trong cuộc biểu tình chống Mỹ năm 1999, sinh viên Trung Quốc cầm biểu ngữ với các khẩu hiệu như "Đừng coi thường người Trung Quốc" và "Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia mạnh nhất thế giới". Vào thời điểm đó, những khẩu hiệu này dường như chỉ là một giấc mơ viển vông, nhưng giờ thì đã nằm trong tầm tay.
Trong một diễn biến liên quan, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hôm 28/5 đã có bài phát biểu trước các nhà khoa học nổi tiếng trong nước tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh. Ông Tập Cận Bình nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng Trung Quốc trở thành nước dẫn đầu về khoa học và công nghệ và đạt được "sự tự cường và tự chủ trong lĩnh vực khoa học công nghệ".
Với Trung Quốc, công nghệ quân sự tạo nên cốt lõi của lĩnh vực khoa học công nghệ. Giữa những lo ngại về khả năng gián đoạn chuỗi cung ứng trong lĩnh vực công nghệ do đối đầu với Mỹ, Trung Quốc đang kêu gọi phát triển độc lập các sản phẩm công nghệ có thể giúp nước này tiến tới vị thế thống trị thế giới. Trong kế hoạch dài hạn đến năm 2035, Trung Quốc tìm cách đuổi kịp Mỹ về mặt quân sự cũng như kinh tế.
Một ngày sau bài phát biểu của ông Tập Cận Bình, chương trình tin tức chính buổi tối của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc đã chiếu cảnh máy bay chiến đấu tàng hình J-20 bay theo đội hình. CCTV coi J-20 như một niềm tự hào dân tộc.
Cũng hôm đó, Ngoại trưởng Serbia Nikola Selakovic đã gặp Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tại Quý Dương, thành phố thủ phủ của tỉnh Quý Châu, Trung Quốc.
Tại cuộc họp báo chung với ông Selakovic, Ngoại trưởng Vương Nghị cho biết hợp tác của Trung Quốc với các nước Trung và Đông Âu "tập trung vào hợp tác kinh tế và thương mại, không liên quan đến lĩnh vực quốc phòng và an ninh”.
Tuy nhiên, khi Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Nguỵ Phương Hoà thăm Serbia vào tháng 3 năm nay, ông và Tổng thống Serbia Aleksandar Vucic đã trao đổi quan điểm về hợp tác quân sự. Họ cùng nhau thị sát một cuộc diễn tập của các lực lượng vũ trang Serbia.
Trung Quốc và Serbia trong lịch sử có mối quan hệ an ninh chặt chẽ. Mối quan hệ này đã nổi bật trở lại do cuộc đối đầu Mỹ-Trung gần đây.
Có thể thấy, 22 năm trôi qua, vụ đánh bom Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư cũ không chỉ là một mảnh ghép lịch sử mà còn là một yếu tố của các mối quan hệ quốc tế phức tạp ngày nay.