Hội đồng xét xử gồm 5 người: 2 thẩm phán, 3 hội thẩm nhân dân do thẩm phán Vũ Quang Huy làm chủ tọa phiên tòa. Ba kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (được biệt phái về Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội) và một kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội được phân công thực hành quyền công tố tại phiên tòa.
Có tổng số 12 bị cáo trong vụ án này, gồm: Đinh La Thăng (sinh năm 1960, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam – PVN), Trịnh Xuân Thanh (sinh năm 1966, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc Tổng Công ty cổ phần xây lắp Dầu khí Việt Nam - PVC), Vũ Thanh Hà (sinh năm 1962, nguyên Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Hóa dầu và Nhiên liệu sinh học Dầu khí - PVB), Trần Thị Bình (sinh năm 1958, nguyên Phó Tổng Giám đốc PVN), Phạm Xuân Diệu (sinh năm 1960, nguyên Tổng Giám đốc PVC), Nguyễn Ngọc Dũng (sinh năm 1958, nguyên Phó Tổng Giám đốc PVC), Đỗ Văn Quang (sinh năm 1972, nguyên Trưởng ban Kinh tế kế hoạch (sau là Ban Kinh tế đấu thầu), PVC), Nguyễn Xuân Thủy (sinh năm 1961, nguyên Phó Trưởng Phòng đầu tư dự án, PVB), Khương Anh Tuấn (sinh năm 1975, nguyên Phó Trưởng Phòng Thương mại, PVB), Lê Thanh Thái (sinh năm 1960, nguyên Trưởng Phòng Kinh doanh, PVB), Hoàng Đình Tâm (sinh năm 1981, nguyên Kế toán trưởng PVB), Đỗ Văn Hồng (sinh năm 1967, Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư và xây lắp Dầu khí Kinh Bắc – PVC Kinh Bắc).
Trong đó, bị cáo Trịnh Xuân Thanh bị Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố về 2 tội: “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” (theo quy định tại Điều 224, khoản 3 – Bộ luật Hình sự năm 2015) và tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” (theo quy định tại Điều 356, khoản 3 – Bộ luật Hình sự năm 2015). Bị cáo Đỗ Văn Hồng bị truy tố về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” (theo quy định tại Điều 356, khoản 3 – Bộ luật Hình sự năm 2015).
Mười bị cáo còn lại bị Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố về tội “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” (theo quy định tại Điều 224, khoản 3 – Bộ luật Hình sự năm 2015).
Tại phiên tòa sáng 22/1, bị cáo Trần Thị Bình (nguyên Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam) có đơn xin vắng mặt do đang điều trị tại bệnh viện; vắng mặt đại diện Tổng công ty cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC), đại diện Công ty cổ phần đầu tư và xây lắp dầu khí Kinh Bắc (PVC Kinh Bắc) cùng hơn 20 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Ngoài ra, một số giám định viên, luật sư cũng không có mặt tại phiên tòa.
Về việc bị cáo Trần Thị Bình vắng mặt, luật sư Đinh Thị Hồng Trang (bào chữa cho bị cáo Trần Thị Bình) trình bày, bị cáo Bình hiện đang điều trị tại bệnh viện, bị cáo đã gửi kết quả siêu âm, đơn thuốc của bệnh viện và đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, luật sư Đinh Thị Hồng Trang đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền được trình bày và quyền tự bào chữa của bị cáo Trần Thị Bình.
Tại phiên tòa, hai bị cáo Hoàng Đình Tâm và Lê Thanh Thái đã bày tỏ mong muốn được hoãn phiên tòa do luật sư bào chữa cho các bị cáo không có mặt, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo.
Trình bày tại phiên tòa, luật sư Trần Hồng Phúc đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa do bị cáo Trần Thị Bình có lời khai rất quan trọng, sự vắng mặt của bị cáo Bình sẽ gây cản trở việc xét xử của vụ án. Thêm vào đó, thông tin từ đại diện Tổng công ty cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC), đại diện Công ty cổ phần đầu tư và xây lắp dầu khí Kinh Bắc (PVC Kinh Bắc) sẽ là cơ sở cáo buộc trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo tại phiên tòa, các giám định viên vắng mặt cũng ảnh hưởng đến quá trình xét xử của phiên tòa.
Đại diện Viện Kiểm sát cho rằng, việc vắng mặt bị cáo Bình và một số người tham gia tố tụng sẽ làm ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án, do vậy đại diện đề nghị Hội đồng xét xử cho hoãn phiên tòa.
Sau khi hội ý, Hội đồng xét xử nhận định, trong phiên tòa sáng 22/1, bị cáo Trần Thị Bình vắng mặt vì lý do sức khỏe, có xác nhận của cơ sở y tế; một số luật sư bào chữa, một số giám định viên và nhiều người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt… Do vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa, thời gian mở lại phiên tòa sẽ được thông báo sau.
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, năm 2007, theo Nghị quyết của Hội đồng quản trị PVN, Công ty cổ phần Hóa dầu và Nhiên liệu sinh học Dầu khí (PVB) được thành lập để làm chủ đầu tư dự án xây dựng Nhà máy sản xuất Ethanol nhiên liệu khu vực phía Bắc (tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ - gọi tắt là Dự án Ethanol Phú Thọ).
Tháng 9/2008, PVB có quyết định phê duyệt hồ sơ mời sơ tuyển gói thầu TK05 theo phương thức “Chìa khóa trao tay” xây dựng Nhà máy sản xuất Ethanol nhiên liệu khu vực phía Bắc để sơ tuyển lựa chọn nhà thầu. PVC đã thành lập Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T để nộp hồ sơ dự tuyển gói thầu này.
Tại thời điểm đóng sơ tuyển, có 6 bộ hồ sơ của các nhà thầu tham gia ứng tuyển, nhưng kết quả chấm sơ tuyển thì cả 6 nhà thầu đều chưa đạt đủ các tiêu chí. Trong đó Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T chưa đạt các tiêu chí về năng lực kỹ thuật, năng lực tư vấn thiết kế, năng lực về xây dựng...
Mặc dù biết PVC chưa từng thực hiện dự án nào về lĩnh vực Ethanol nhưng từ trước khi PVB triển khai lựa chọn nhà thầu, với vai trò là Chủ tịch Hội đồng quản trị PVN, bị cáo Đinh La Thăng đã chủ trì nhiều cuộc họp để định hướng việc giao thầu cho PVC theo như đề nghị của bị cáo Trịnh Xuân Thanh. Trên cơ sở chỉ đạo của Đinh La Thăng, bị cáo Trịnh Xuân Thanh đã ký công văn gửi PVB xin được chỉ định thực hiện Dự án Ethanol Phú Thọ. Tại các cuộc họp giao ban, bị cáo Đinh La Thăng và Trần Thị Bình (khi đó là Phó Tổng Giám đốc PVN) chủ trì họp đều kết luận, chỉ đạo PVB, PVC hoàn tất thủ tục chỉ định thầu và ký hợp đồng với Liên danh nhà thầu PVC/Alfa Laval/Delta-T.
Quá trình thực hiện, do Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T không đủ năng lực nên Dự án Ethanol Phú Thọ liên tục bị chậm tiến độ. PVC sau đó cũng có báo cáo thừa nhận Liên danh PVC/Alfa Laval/Delta-T không đủ năng lực để thực hiện dự án.
Tháng 3/2013, PVC đã đơn phương dừng thi công dự án và chưa có hạng mục nào hoàn thành. PVC đưa ra lý do việc dừng dự án vì đơn vị gặp nhiều khó khăn về tài chính, hoàn toàn chưa có kinh nghiệm quản lý và kết nối các giao diện về công nghệ...
Cáo trạng xác định, hậu quả từ hành vi làm trái các quy định của các bị cáo trong vụ án đã gây ra thiệt hại cho PVB tổng số tiền hơn 543 tỷ đồng.