Trước tín hiệu tốt này, người dân ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mở rộng diện tích trồng lúa nếp. Thực tế này cho thấy, nếu ngành nông nghiệp và các địa phương không có khuyến cáo kịp thời, hệ lụy của tình trạng này trong tương lai là khó tránh khỏi.
Ngành nông nghiệp và các địa phương cần có khuyến cáo kịp thời trong việc mở rộng diện tích trồng lúa nếp ở đồng bằng Sông Cửu Long. Ảnh: Duy Khương/TTXVN |
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), trong cơ cấu chất lượng gạo xuất khẩu năm 2016, nếp là một trong hai loại gạo duy nhất (sau gạo Japonica) có sự gia tăng đáng kể, đạt trên 1 triệu tấn, tăng gần 96,6% so với năm 2015. Đây cũng là mức tăng trưởng kỷ lục của loại gạo này trong những năm qua. Xuất khẩu gạo nếp gia tăng chủ yếu do nhu cầu lớn từ thị trường Trung Quốc, chiếm đến 90% lượng nếp xuất khẩu.
Nhìn lại mặt bằng giá lúa gạo trong năm 2016, có thời điểm giá tăng cao đến 700 đồng/kg. Giá gạo nếp xuất khẩu bình quân trong năm 2016 cũng tăng tới 36 USD/tấn. Một số doanh nghiệp thậm chí không gom đủ hàng để cung cấp nhu cầu thị trường Trung Quốc. Khi thấy giá tăng, nhu cầu tiêu thụ cao, nhiều người dân chuyển sang trồng lúa nếp khiến diện tích gieo trồng tăng đột biến.
Ông Huỳnh Thế Năng, Chủ tịch VFA cho biết, riêng vụ Đông Xuân 2016 - 2017 có 146.000ha diện tích lúa nếp được gieo trồng, sản lượng lúa gạo hàng hóa nếp sẽ đạt khoảng 600.000 tấn. Dự kiến, năm 2017, diện tích gieo trồng nếp có thể lên đến 356.000 ha, đạt sản lượng khoảng 1,2 - 1,3 triệu tấn, tăng 20 - 30% so với năm 2016. Dù hiện tình hình tiêu thụ khá tốt nhưng khi nông dân ào ạt chuyển sang trồng gạo nếp, chắc chắn sẽ gặp nhiều rủi ro.
Đề cập về ảnh hưởng của việc ồ ạt mở rộng diện tích lúa nếp, ông Lê Thanh Tùng, Phó Trưởng phòng Cây lương thực - cây thực phẩm, Cục Trồng trọt cho biết, do chất lượng gạo hoàn toàn khác nhau nên khi không có lộ trình cụ thể để chuẩn bị đồng ruộng và kỹ thuật canh tác khi chuyển sản xuất từ gạo tẻ sang nếp sẽ gặp nhiều trở ngại.
“Trở ngại đầu tiên khi không chuẩn bị tốt vùng nguyên liệu đó là gạo nếp sẽ lẫn gạo tẻ, chất lượng kém đi, khó đạt yêu cầu khi xuất khẩu. Bên cạnh đó, nếp là cây trồng rất nhạy cảm với các loại dịch hại. Nếu trình độ canh tác của bà con không được cải thiện thì dịch hại sẽ tấn công và khi đó sẽ sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật.
Điều này dẫn đến nguy cơ gạo vẫn còn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật hoặc khiến giá thành sản xuất cao hơn. Do vậy, khi mở rộng diện tích trồng nếp phải dựa trên nền tảng của một vùng nguyên liệu, thị trường có sẵn hoặc diện tích dần dần mở rộng theo thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp là tốt nhất”, ông Tùng nói.
Dưới góc độ thị trường, bà Đặng Thị Liên, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Lương thực thực phẩm Long An cho rằng, sở dĩ thời gian gần đây xuất khẩu gạo nếp sang Trung Quốc gia tăng là do nước này có nền ẩm thực khá phong phú, gạo nếp có thể chế biến thành nhiều loại thực phẩm khác nhau. Mặc dù Trung Quốc là thị trường tiêu thụ tốt, sản phẩm gạo nếp của Việt Nam ít có đối thủ cạnh tranh, nhưng sẽ là rủi ro khi cung vượt cầu. Bên cạnh đó, việc giới hạn chỉ có 22 doanh nghiệp được phép xuất khẩu qua thị trường này và kèm theo nhiều yêu cầu khắt khe về vấn đề an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc sẽ khiến xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.
Đơn cử như trường hợp của một doanh nghiệp ở ĐBSCL, có vùng nguyên liệu nếp liên kết với nông dân lên đến 700 ha, phần lớn sản lượng được xuất khẩu sang Trung Quốc. Tuy nhiên, theo kết quả kiểm tra và thông báo của phía Trung Quốc, chỉ có 22 doanh nghiệp được phép xuất khẩu sang thị trường này và doanh nghiệp này không nằm trong danh sách đó. Với sự thay đổi đột ngột chỉ trong vài tháng, doanh nghiệp nói trên đang phải tìm cách xuất khẩu nếp sang các thị trường khác như Trung Đông. Tuy vậy, tình hình của doanh nghiệp vẫn còn khá nhiều khó khăn.
Trước tình hình này, đại diện VFA đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có khuyến cáo mạnh mẽ đối với những diện tích trồng lúa nếp đang phát triển ồ ạt ở ĐBSCL. Nếu khuyến cáo không kỹ, nông dân vẫn “tốc chiến, tốc thắng” như hiện nay thì sẽ có lúc giá lúa nếp sụt giảm xuống thấp, ảnh hưởng lớn đến thu nhập của người dân cũng như chiến lược phát triển của ngành lúa gạo Việt Nam trong thời gian tới.
Đại diện Cục Trồng trọt cũng cho rằng, để hạn chế diện tích lúa nếp gia tăng ồ ạt, các doanh nghiệp cần công bố sản lượng mua hàng năm vào đầu vụ để nông dân biết. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương cần theo dõi chặt chẽ và khuyến cáo nông dân kịp thời. Về lâu dài, việc xây dựng vùng nguyên liệu nếp ở khu vực phía Bắc là cần thiết để phục vụ xuất khẩu.