Giá lúa thường tại ruộng cao nhất là 6.750 đồng/kg, giá bình quân là 6.6 đồng/kg, tăng 32 đồng/kg. Giá lúa thường tại kho cũng tăng trung bình 42 đồng/kg, ở mức 7.992 đồng/kg; giá cao nhất là 8.250 đồng/kg.
Giá các mặt hàng gạo cũng có sự tăng nhẹ. Theo đó, gạo 5% tấm có giá cao nhất 11.600 đồng/kg, giá bình quân 11.521 đồng/kg, tăng 79 đồng/kg. Gạo 15% tấm có giá cao nhất 11.450 đồng/kg, giá bình quân 11.292 đồng/kg, tăng 117 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 11.300 đồng/kg, giá bình quân 11.067 đồng/kg, tăng 83 đồng/kg. Tuy nhiên, giá gạo xát trắng loại 1 giảm 113 đồng/kg, giá trung bình là 11.225 đồng/kg.
Nhìn lại thị trường lúa gạo 6 tháng đầu năm 2023, Cục Chất lượng, chế biến và phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, giá lúa trong nước diễn biến giảm vào quý I, sau đó tăng dần và ổn định trong 2 tháng cuối của quý II. Trên thị trường, giá lúa vụ Hè Thu cao hơn so với vụ Thu Đông.
Cụ thể, tại An Giang giá lúa OM 18 có giá 6.800 đồng/kg; OM 5451 từ 6.300 - 6.500/kg; IR 50404 trong khoảng 6.200 - 6.400 đồng/kg. Lúa Nàng Hoa 9 được thu mua với giá trong khoảng 6.600 - 6.800 đồng/kg; Đài thơm 8 trong khoảng 6.800 - 7.000 đồng/kg; lúa Nhật trong khoảng 7.800 - 8.000 đồng/kg…
Tại Sóc Trăng, giá có sự tăng, giảm tùy loại như: Đài thơm 8 ở mức 8.100 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; còn RVT là 8.100 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; riêng OM 5451 vẫn giữ ở mức 7.800 đồng/kg.
Tại Kiên Giang, với lúa IR 50404 giảm 100 đồng/kg ở mức 6.400 đồng/kg; thì OM 5451 lại tăng 100 đồng/kg lên 6.800 đồng/kg; riêng Jasmine vẫn ở mức 7.000 đồng/kg.
Kế hoạch sản xuất lúa gạo cả năm 2023 cả nước gieo trồng 7,1 triệu ha, năng suất trung bình ước đạt 60,7 tạ/ha, sản lượng dự kiến 43,11 triệu tấn, tăng 0,4 triệu tấn so với năm 2022.
Đến nay, diện tích lúa đã gieo cấy khoảng 5,4 triệu ha (tương đương 76,6% kế hoạch), diện tích còn lại 1,65 triệu ha lúa (Lúa Thu đông tại Đồng bằng sông Cửu Long và lúa Mùa) dự kiến sẽ gieo cấy xong trong tháng 10 năm 2023.
Diện tích đã thu hoạch đến nay khoảng 3,3 triệu ha (đạt 46,8% kế hoạch), sản lượng thóc đã thu được khoảng 21,8 triệu tấn. Diện lúa còn lại 3,75 triệu ha (tương đương với sản lượng 21 triệu tấn) sẽ được thu hoạch từ nay đến cuối năm 2023 và tháng 1/2024.
Cân đối lượng gạo hàng hóa phục vụ cho xuất khẩu năm 2023, tổng khối lượng gạo hàng hóa cho xuất khẩu tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long ước đạt 6,6 triệu tấn. Trong đó, tổng lượng gạo hàng hóa cho xuất khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 4,1 triệu tấn, cho xuất khẩu 6 tháng cuối năm ước 2,5 triệu tấn.
Với tình hình trên, dự báo xuất khẩu gạo của Việt Nam có khả năng sẽ tiếp tục chậm lại do nguồn cung từ vụ Đông Xuân đã cạn. Tuy nhiên, triển vọng ngành gạo được đánh giá là tương đối tích cực trong 6 tháng cuối năm do sản lượng gạo tại nhiều quốc gia sản xuất tại châu Á đứng trước nguy cơ sụt giảm trước tác động của El Nino.
Tuần qua, giá gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức từ 500 - 510 USD/tấn, không đổi so với một tuần trước. Một thương nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết nhu cầu đối với gạo Việt Nam vẫn mạnh và ước tính nhu cầu gạo toàn cầu có thể tiếp tục tăng cho đến cuối năm nay.
Một lãnh đạo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết, xuất khẩu gạo của cả nước năm nay sẽ vượt 6,5 triệu tấn, nhưng vẫn dưới mức 7,1 triệu tấn của năm ngoái.
Dữ liệu sơ bộ cho thấy 95.200 tấn gạo đã được bốc dỡ tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ ngày 1 - 12/7, với phần lớn gạo được chuyển đến châu Phi, Indonesia và Philippines.
Trong khi giá xuất khẩu gạo Việt Nam không có sự thay đổi thì giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ đã tăng lên mức cao nhất trong 5 năm do lo ngại về nguồn cung.
Giá gạo đồ 5% tấm của nước xuất khẩu hàng đầu Ấn Độ được chào bán ở mức từ 412 - 420 USD/tấn trong tuần này, tăng so với mức từ 409 - 416 USD/tấn vào tuần trước. Một nhà xuất khẩu có trụ sở tại Mumbai cho biết, nhu cầu đã tăng cao hơn nhưng giá vẫn tăng do nguồn cung hạn chế và Chính phủ Ấn Độ tăng giá thu mua gạo từ nông dân.
Giá gạo toàn cầu, hiện ở mức cao nhất trong 11 năm, dự kiến sẽ tăng thêm sau khi Chính phủ Ấn Độ tăng giá thu mua gạo từ nông dân, trong bối cảnh hiện tượng thời tiết El Nino có nguy cơ làm giảm sản lượng của các nước sản xuất lúa gạo chủ chốt.
Còn giá gạo 5% tấm của Thái Lan cũng không đổi so với tuần trước, giao dịch ở mức 515 USD/tấn. Theo một thương nhân có trụ sở tại Bangkok, nhìn chung, giá gạo duy trì ở mức cao do nhu cầu mạnh mẽ từ Indonesia, Philippines, Malaysia và một số quốc gia châu Phi do lo ngại hạn hán khiến nhu cầu dự trữ tăng lên.
Các quan chức Bộ Nông nghiệp Bangladesh cho hay sản lượng gạo vụ Hè của nước này sẽ vượt mục tiêu 21,5 triệu tấn trong năm nay. Bangladesh đang cố gắng kiềm chế giá gạo trong nước đang tăng cao bất chấp sản lượng và dự trữ dồi dào.
Về thị trường nông sản Mỹ, giá các mặt hàng nông sản trên sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) đều giảm trong phiên 7/7; trong đó giá ngô giảm mạnh nhất.
Khép phiên này, giá ngô giao tháng 12/2023 giảm 12 xu Mỹ (2,37%) xuống 4,945 USD/bushel. Giá lúa mỳ giao tháng 9/2023 giảm 8,5 xu Mỹ (1,29%) xuống 6,495 USD/bushel. Giá đậu tương giao tháng 11/2023 giảm 21,75 xu Mỹ (1,62%) xuống 13,1775 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Giá ngũ cốc trên sàn CBOT sụt giảm sau khi có thông tin dự báo lượng mưa tốt ở một số khu vực gieo trồng. Tuần tới, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) sẽ công bố báo cáo sản lượng vụ mùa tháng 7 vào ngày 12/7. Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago (Mỹ) dự báo giá đậu tương giao tháng 11/2023 có thể giảm dưới 13 USD/bushel.
Doanh số xuất khẩu của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 29/6 là 14,9 triệu bushel lúa mỳ, 9,9 triệu bushel ngô vụ cũ và 16,5 triệu bushel ngô vụ mới, và 6,9 triệu bushel đậu tương vụ cũ và 21,8 triệu bushel đậu tương vụ mới.
Trung Quốc đã mua ít nhất 18 - 22 lô hàng đậu tương của Brazil và 3 - 5 lô hàng đậu tương của Mỹ.
Thị trường cà phê thế giới cho thấy, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe - London tăng vọt. Giá cà phê Robusta giao tháng 9/2023 tăng 111 USD, lên 2.621 USD/tấn và giá cà phê Robusta giao tháng 11/2023 tăng 69 USD, lên 2.475 USD/ tấn, các mức tăng rất mạnh. Khối lượng giao dịch rất cao trên mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US - New York tiếp tục hồi phục. Giá cà phê Arabica kỳ hạn giao ngay tháng 9/2023 tăng thêm 0,45 xu Mỹ, lên 160,90 xu Mỹ/lb và giá cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 12/2023 tăng thêm 0,4 xu Mỹ lên 160,05 xu/lb, các mức tăng nhẹ. Khối lượng giao dịch ở mức trung bình (1 lb = 0,4535 kg).
Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên tăng từ 1.800 - 1.900 đồng, lên dao động trong khung 66.100 - 66.600 đồng/kg.
Lượng giao hàng tại sàn theo kỳ hạn tháng 7 chỉ mới bắt đầu và khách mua qua sàn đã nhận hàng cùng lúc khiến mức tồn kho giảm mạnh, đây cũng là cơ hội để đầu cơ kích giá tăng vọt do lo ngại thiếu hụt nguồn cung.