Nhờ giữ ở mức cao nên nông dân thu hoạch lúa Đông Xuân sớm thu lợi nhuận khá. Giá gạo xuất khẩu vẫn tiếp tục đi ngang, chung với diễn biến thị trường của các nhà xuất khẩu gạo lớn ở châu Á.
Tại An Giang, theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, giá các loại lúa hầu hết vẫn giữ ổn định như: Đài thơm 8, OM 18 từ 9.600 - 9.800 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giá từ 9.500 - 9.600 đồng/kg, lúa Nhật từ 7.800 - 8.000 đồng/kg; riêng OM 5451 từ 9.400 - 9.600 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; IR 50404 từ 9.000 - 9.200 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 19.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 17.500 - 19.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 19.500 đồng/kg…
Hiện nay, giá lúa chất lượng cao bán tại ruộng ở Đồng Tháp giá 10.200 đồng/kg, lúa thường IR 50404 giá từ 9.600 - 10.000 đồng/kg, người trồng lúa lãi từ 40 - 60 triệu đồng/ha.Vụ lúa Đông Xuân 2023 - 2024, tỉnh Đồng Tháp xuống giống hơn 184.000 ha, đạt trên 95% kế hoạch. Diện tích thu hoạch lúa sớm hơn 6.000 ha, năng suất bình quân hơn 6,4 tấn/ha, nhiều diện tích đạt từ 7 - 8 tấn/ha.
Các giống chủ lực cho vụ lúa năm nay ở Đồng Tháp như: lúa Đài thơm 8, OM 18, OM 5451, OM 4900, Nàng Hoa 9. Đầu vụ lúa Đông Xuân 2023 - 2024 lúa chất lượng cao bán tại ruộng với giá cao, nông dân thu lãi khoảng 1,5 lần so với vụ Đông Xuân trước.
Hiện nay, nông dân trồng lúa ở Đồng Tháp được thương lái săn đón thu mua. Thời điểm lúa làm đòng, nhiều thương lái đã tìm đến đặt cọc, tạm ứng tiền trước số lượng không hạn chế với giá cao.
Trên những cánh đồng sản xuất lúa - tôm của tỉnh Bạc Liêu những ngày này, đâu đâu cũng bắt gặp không khí thu hoạch lúa rộn ràng. Hiện, giá lúa tươi được thu mua tại ruộng dao động từ 9.000 – 11.500 đồng/kg tùy loại giống. Riêng đối với lúa sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ được thu mua với giá cao hơn.
Tỉnh Bạc Liêu hiện có gần 40.000 ha sản xuất theo mô hình lúa - tôm. Đây được xem là mô hình sản xuất “thuận thiên” thích ứng biến đổi khí hậu, mang lại hiệu quả bền vững.
Tại Sóc Trăng, các địa phương vùng thường xuyên bị ảnh hưởng mặn xâm nhập như huyện Long Phú, Trần Đề đã bắt đầu thu hoạch lúa vụ Đông Xuân chính vụ. Hiện giá lúa thường từ 8.700 - 10.000 đồng/kg, lúa thơm từ 9.700 đến trên 10.000 đồng/kg và nhóm lúa ST ghi nhận thực tế tại một số địa phương đang thu hoạch có giá từ 11.000 đồng/kg trở lên. Nhìn chung giá bán các loại lúa tăng từ 2.000 đồng/kg trở lên (lúa tươi tại đồng) so với năm trước và năng suất đạt khá nên nông dân phấn khởi.
Về xuất khẩu, giá gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán ở mức 653 USD/tấn, cũng không thay đổi so với tuần trước.
Một thương nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh dự đoán nhu cầu của thế giới đối với gạo Việt Nam vẫn cao trong năm nay. Mức giá này vẫn có thể khuyến khích nông dân mở rộng sản xuất trong vụ tiếp theo.
Tương tự, giá gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được chào bán ở mức từ 510 - 517 USD/tấn, không đổi so với tuần trước khi giá tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 10/2023.
Một nhà xuất khẩu tại Kakinada, Andhra Pradesh cho biết nhu cầu hơi thấp, nhưng các nhà xuất khẩu không thể hạ giá vì đồng rupee mạnh lên. Nguồn cung cũng đang giảm ở các bang phía bắc.
Giá gạo 5% tấm của Thái Lan được báo giá ở mức từ 648 - 650 USD/tấn, ít thay đổi so với mức 650 USD/tấn trong tuần trước, do các thương nhân cho rằng mức giá này là do nhu cầu không thay đổi từ các thị trường Đông Nam Á.
Một thương nhân có trụ sở tại Bangkok cho biết nhu cầu từ Indonesia và Philippines vẫn được duy trì. Bên cạnh đó, sự biến động của tỷ giá hối đoái trong tuần này cũng giúp giữ giá gạo ổn định.
Một thương nhân khác cho biết nguồn cung ứng cũng giảm do thị trường chờ vụ mùa mới vào khoảng tháng 2-3/2024.
Về thị trường nông sản Mỹ, phiên giao dịch cuối tuần ngày 12/1, giá các mặt hàng nông sản tại sàn giao dịch hàng hóa Chicago (Mỹ) đều giảm, dẫn đầu là ngô.
Chốt phiên này, giá ngô giao tháng 3/2024 giảm 10,75 xu, tương đương 2,35% xuống 4,47 USD/bushel. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn cũng giảm 12,25 xu, tương đương 0,99% xuống 12,2425 USD/bushel. Trong khi đó, giá lúa mỳ giao tháng 3/2023 giảm 7,75 xu (1,28%) xuống 5,96 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Giá các mặt hàng nông sản kỳ hạn trên sàn CBOT giảm mạnh sau Báo cáo vụ mùa tháng Một của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) và báo cáo ước tính cung và cầu nông nghiệp thế giới.
Báo cáo cho thấy dự trữ ngô, đậu tương và lúa mỳ trong giai đoạn 2023-2024 của Mỹ đã tăng 55 triệu bushel, trong đó ngô tăng 31 triệu bushel, đậu nành tăng 35 triệu bushel và lúa mỳ giảm 11 triệu bushel. Việc kho dự trữ ngũ cốc thế giới bổ sung thêm 12 triệu tấn cũng khiến giá nông sản giảm.
Báo cáo này cũng cho thấy sản lượng ngô năm 2023 của Mỹ đạt mức kỷ lục mới là 177,3 bushel trên mỗi mẫu Anh (1 mẫu Anh = 4.046,8 m2). Mỹ đã thu hoạch một vụ ngô lớn kỷ lục 15,34 tỷ bushel. Báo cáo đã điều chỉnh nhu cầu ngô của Mỹ tăng thêm 75 triệu bushel, dẫn tới lượng tồn kho cuối kỳ vào khoảng 2,162 triệu bushel. Báo cáo này cũng dự báo giá ngô kỳ hạn giao tháng 3/2023 có thể giảm thêm 15 - 25 xu xuống 4,30 - 4,40 USD/bushel. Dự trữ ngô thế giới đã tăng khoảng 10 triệu tấn lên 325 triệu tấn.
Năng suất đậu tương năm 2023 của Mỹ đã tăng thêm 0,7 mẫu Anh, nâng tổng sản lượng lên 4,165 triệu bushel, tăng 24 triệu bushel so với tháng 11/2023. Báo cáo dự báo nhu cầu đậu tương của Mỹ không thay đổi, còn dự trữ đậu tương giai đoạn 2023-2024 tăng lên 280 triệu bushel.
Vụ đậu tương năm 2024 của Brazil đã giảm 4 triệu tấn xuống còn 157 triệu tấn, trong khi vụ đậu tương của Argentina tăng 2 triệu tấn lên 50 triệu tấn. Dự trữ đậu tương thế giới niên vụ 2023-2024 giữ ổn định ở mức 114 triệu tấn.
Báo cáo này đã hạ dự trữ lúa mỳ niên vụ 2023-2024 của Mỹ xuống còn 648 triệu bushel. Dự trữ lúa mỳ của Liên minh châu Âu (EU) tăng 2,5 triệu tấn do nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm. Dự trữ lúa mỳ thế giới tăng 2 triệu tấn lên 260 triệu tấn.
Sự chú ý của thị trường hiện đang chuyển tới dữ liệu năng suất đậu tương của Brazil trong những tuần tới.
Thị trường cà phê thế giới cho thấy, kết thúc phiên giao dịch cuối tuần, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe - London có xu hướng đi ngược chiều. Giá cà phê Robusta giao tháng 3/2024 tăng 1 USD, lên 2.939 USD/tấn, trong khi giá cà phê Robusta giao tháng 5/2024 giảm 17 USD xuống 2.814 USD/tấn và giá cà phê Robusta giao tháng 7/2024 giảm 16 USD xuống 2.7 USD/tấn. Khối lượng giao dịch duy trì trên mức trung bình.
Trái lai, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US - New York đảo chiều giảm. Giá cà phê Arabica giao tháng 3/2024 giảm 4,05 xu xuống 180 xu/lb và giá cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 5/2024 giảm 3,65 xu xuống 177,35 xu/lb (1 lb = 0,4535 kg). Khối lượng giao dịch duy trì rất cao trên mức trung bình.