Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc Giải phóng được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chính phủ lâm thời có 15 vị Bộ trưởng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cơ cấu Chính phủ gồm 13 bộ, trong đó có Bộ Nội vụ do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng.
Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của Bộ Nội vụ
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng và theo Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh về việc triệu tập một cuộc Đại hội đại biểu Quốc dân Việt Nam, ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào, Quốc dân Đại hội đã khai mạc. Hơn 60 đại biểu đại diện cho các giới, các tầng lớp Nhân dân yêu nước từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và kiều bào ở nước ngoài, tượng trưng cho khối đại đoàn kết dân tộc đã về dự Đại hội. Đại hội nhất trí ủng hộ đề nghị của Đảng Cộng sản Đông Dương về việc phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc và thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh. Đại hội cũng nhất trí cử ra Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch. Uỷ ban có nhiệm vụ chỉ huy cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và khi điều kiện cho phép thì chuyển thành Chính phủ lâm thời, "... thay mặt quốc dân mà giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước".
Trong giờ phút quyết liệt đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước vùng lên khởi nghĩa, giành lấy chính quyền.
Theo lời hiệu triệu của Tổng bộ Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân ta đã nhất tề vùng lên lật đổ chính phủ bù nhìn, tay sai của phát xít Nhật, lập nên chính quyền cách mạng. Ngày 15/8/1945, tại Hà Nội, Uỷ ban quân sự cách mạng đã được thành lập để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 19/8/1945, cuộc mít tinh khổng lồ của khoảng 200.000 người đã nhanh chóng biến thành cuộc biểu tình vũ trang quần chúng giành chính quyền. Ngày 20/8/1945, Uỷ ban nhân dân cách mạng Bắc Bộ, Uỷ ban nhân dân cách mạng Hà Nội được thành lập và ra mắt Nhân dân. Ngày 23/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa Thừa Thiên tổ chức một cuộc mít tinh khổng lồ với sự tham gia của hàng vạn người, tuyên bố thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng Thừa Thiên - Huế. Ngày 25/8/1945, Uỷ ban hành chính lâm thời Nam Bộ cũng đã được thành lập và ra mắt Nhân dân…
Như vậy, chỉ trong khoảng hai tuần lễ, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh đã giành thắng lợi căn bản trên phạm vi toàn quốc. Tại hầu hết các tỉnh, thành phố, huyện, xã, chính quyền cách mạng đã được thành lập.
Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 đã đập tan chính quyền của bọn đế quốc và phong kiến tay sai thống trị gần một trăm năm, xoá bỏ vĩnh viễn chế độ quân chủ tồn tại hàng ngàn năm, chế độ thuộc địa nửa phong kiến sụp đổ. Thắng lợi này đã mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Ngày 27/8/1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc Giải phóng được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời ra Tuyên cáo nêu rõ: “Nhiệm vụ của Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam hết sức nặng nề. Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu được được Mặt trận Dân tộc thống nhất một cách rộng rãi và đầy đủ. Bởi vậy, Uỷ ban Dân tộc Giải phóng đã quyết định tự cải tổ, mời thêm một số nhân sĩ tham gia Chính phủ đặng cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà Quốc dân đã giao phó cho”.
Chính phủ lâm thời có 15 vị Bộ trưởng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Cơ cấu Chính phủ gồm 13 bộ, trong đó có Bộ Nội vụ do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bộ trưởng. Như vậy, ngày 28/8/1945 đã đi vào lịch sử, là ngày khai sinh của Bộ Nội vụ và đánh dấu sự ra đời của ngành Tổ chức nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Thời kỳ Chính phủ lâm thời (1945 - 1946)
Ngay sau khi thành lập, Bộ Nội vụ đã khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ được giao như: chuẩn bị các điều kiện và tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội; nghiên cứu thành lập các tổ chức của Chính phủ; xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền địa phương các cấp; xây dựng đội ngũ công chức cách mạng; thiết lập chế độ công chức mới; bảo đảm trật tự, an ninh xã hội, bảo vệ Đảng, Chính phủ trước sự chống phá của kẻ thù.
Một trong những biện pháp cải tổ bộ máy hành chính công quyền đầu tiên của Chính phủ là xoá bỏ các ngạch quan lại cũ của bộ máy chính quyền thực dân, tổ chức hệ thống các cơ quan chính quyền mới. Ngày 03/10/1945, theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 41/SL quy định tất cả các công sở và các cơ quan thuộc phủ Toàn quyền Đông Dương đã thành lập ở Việt Nam đều bị bãi bỏ. Để khắc phục tình trạng thiếu cán bộ, công chức thông thạo nghiệp vụ hành chính công; đồng thời, nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, Sắc lệnh này cũng quy định việc tuyển chọn và sử dụng nhân viên, công chức của hệ thống chính quyền cũ. Theo đó, Sắc lệnh quy định chuyển giao nhân viên của Toà công chức phủ Toàn quyền, Ty Pháp chế và Hành chính, Ty Hành chính tố tụng và Hành chính kiểm sát, Ty Nội chính thuộc tòa Chính trị phủ Toàn quyền, Toà Liêm phóng phủ Toàn quyền, Ban Công báo của Phòng Công văn phủ Toàn quyền sang Bộ Nội vụ. Một số nhân viên của bộ máy chính quyền cũ có hạnh kiểm, tư cách tốt, có trình độ nghiệp vụ cao đã được tuyển chọn làm việc trong Bộ Nội vụ. Ban đầu cơ quan Bộ Nội vụ chỉ có vài chục công chức, nhân viên và 03 thanh tra viên.
Một chủ trương lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là khẩn trương tổ chức cuộc Tổng tuyển cử để bầu ra các cơ quan công quyền hợp hiến, hợp pháp. Bộ Nội vụ đã có đóng góp quan trọng trong việc thực hiện chủ trương này. Ngày 08/9/1945, thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ký Sắc lệnh số 14 về việc "mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân Đại hội". Tiếp đó, Bộ Nội vụ đã chuẩn bị để Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta. Sắc lệnh gồm 12 khoản với 70 điều, giao cho Bộ Nội vụ và Bộ Tuyên truyền cùng phối hợp tổ chức thực hiện. Nhận thức rõ sứ mạng thiêng liêng của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, Bộ Nội vụ đã dốc toàn tâm, toàn sức và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thời kỳ kháng chiến và kiến quốc
Ngày 06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử đã bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 333 đại biểu. Ngày 02/3/1946, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bầu ra Chính phủ Liên Hiệp kháng chiến để lãnh đạo Nhân dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng lại đất nước, đấu tranh giữ gìn nền độc lập vừa giành được. Về Bộ trưởng Bộ Nội vụ mới được bổ nhiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu: “Một người đạo đức danh vọng mà toàn thể quốc dân ai cũng biết: Cụ Huỳnh Thúc Kháng”.
Nhiệm vụ chủ yếu của Bộ Nội vụ thời kỳ này như: tổ chức cuộc tản cư, di chuyển chiến lược; từng bước hoàn chỉnh cơ cấu chính quyền kháng chiến; xây dựng và quản lý tổ chức bộ máy các cơ quan của Chính phủ; ban hành quy chế tổ chức các Bộ, ngành; xây dựng và quản lý chính quyền địa phương các cấp; xây dựng chế độ công chức, công vụ mới và quản lý cán bộ, công chức; …
Nhằm tiếp tục củng cố chính quyền, ngày 03/5/1946, theo đề nghị của Bộ Ngày 25/01/1949, theo đề xuất của Bộ Nội vụ, Hội đồng Chính phủ đã quyết định lập bốn Ban lớn, thực hiện liên thông hoạt động giữa các Bộ. Đây là một giải pháp sáng tạo cực kỳ quan trọng nhằm tạo ra cơ chế vận hành vừa chặt chẽ, vừa linh hoạt, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, do đó, đã phát huy cao độ công năng của hệ thống chính quyền kháng chiến. Bốn Ban đó là: Ban Quân sự gồm: Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tư lệnh; Ban Nội chính gồm: Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao; Ban Kinh tế gồm: Bộ Kinh tế, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính, Bộ Canh nông, Bộ Lao động; Ban Giáo dục - Văn hoá - Xã hội gồm: Bộ Giáo dục, Bộ Y tế, Bộ Thương binh, Cứu tế.
Đồng thời với việc cải tiến cơ chế liên thông trong vận hành chính quyền Trung ương, Bộ Nội vụ đã đề ra nhiều quyết sách phù hợp mang lại hoạt động hiệu quả của hệ thống chính quyền các cấp. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản để Bộ Nội vụ triển khai chủ trương, kế hoạch củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức chính quyền từ Trung ương đến địa phương trong những năm 1947-1950. Thông qua cách tổ chức lại chính quyền địa phương, chính quyền Trung ương bắt đầu thực hiện phân quyền hành chính mạnh cho các cấp dưới.
Thành tích to lớn, quan trọng của Bộ Nội vụ thời kỳ này chính là tổ chức thành công cuộc tản cư, di chuyển chiến lược, đảm bảo giữ gìn và duy trì tốt cơ sở vật chất tối quan trọng cho toàn bộ cuộc kháng chiến. Trong đó, việc Bộ phối hợp tổ chức, bảo vệ thành công việc sơ tán toàn bộ cơ quan lãnh đạo Trung ương lên Việt Bắc thực sự là một kỳ tích.
Đồng thời, Bộ Nội vụ cũng đã có đóng góp to lớn trong việc tiếp tục củng cố, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân các cấp, biến chính quyền thành công cụ hữu hiệu chỉ huy và tổ chức cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đây là kết quả của một loạt các cải cách về cơ chế tổ chức của chính quyền do Bộ Nội vụ nghiên cứu và đề xuất, nhằm làm cho chính quyền nhà nước Việt Nam phù hợp nhất với điều kiện chiến tranh ở từng vùng; đồng thời, phát huy được cao nhất công năng và tính ưu việt của chính quyền cách mạng. Việc kiện toàn bộ máy chính quyền theo hướng vừa gọn, nhẹ, vừa chuyên nghiệp, chính quy đã làm cho các hoạt động của Bộ đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả hơn.
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết ngày 20/7/1954 về đình chỉ chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương, bãi bỏ quyền cai trị của người Pháp, công nhận nền độc lập của ba quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia, Bộ Nội vụ đã góp phần quan trọng giúp Đảng, Nhà nước hoàn thành tốt việc chỉ đạo, tổ chức công tác tiếp quản Thủ đô, vùng mới giải phóng, góp phần ổn định tình hình chính trị, chính quyền và đời sống cho Nhân dân.
Thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 07/5/1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất nước nhà, nhiều vấn đề mới trong công tác tổ chức bộ máy nhà nước, công chức, công vụ và các vấn đề xã hội khác được đặt ra. Bộ Nội vụ đã nhanh chóng bắt tay vào công tác xây dựng bộ máy chính quyền sau chiến tranh.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Bộ Nội vụ đã nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện, chấn chỉnh, tăng cường cơ quan dân cử địa phương, thực hiện bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp; thành lập các khu tự trị Tây Bắc, Việt Bắc, tổ chức các tỉnh, thành phố; xây dựng, theo dõi thực hiện Luật Tổ chức Chính quyền địa phương; nghiên cứu, theo dõi, thực hiện chính sách cán bộ của Đảng, Chính phủ ở cơ quan nhà nước; xây dựng chế độ tiền lương, điều chỉnh biên chế; nghiên cứu theo dõi thực hiện quyền lập hội; nghiên cứu, theo dõi thực hiện chính sách đối với quân nhân phục viên về xã, Việt kiều về nước, công nhân Âu – Phi…, góp phần nhanh chóng củng cố chính quyền, giúp bộ máy nhà nước tổ chức, điều hành và động viên Nhân dân khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội.
Thời kỳ này, cán bộ, công chức ngành Tổ chức nhà nước đã đảm đương, hoàn thành nhiều nhiệm vụ to lớn, nổi bật là: kiện toàn tổ chức, bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước, xây dựng và trình Hội đồng Chính phủ các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; giúp các Bộ xây dựng Điều lệ tổ chức; hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện cải tiến tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, cải tiến lề lối làm việc của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương; chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác cán bộ phục vụ kế hoạch 05 năm lần thứ nhất; chỉ đạo công tác bầu cử, xây dựng, củng cố chính quyền địa phương; xây dựng chế độ quản lý và chỉ đạo thực hiện chỉ tiêu biên chế, tiền lương, chế độ chính sách và bảo hiểm xã hội; điều chỉnh địa giới hành chính và phê chuẩn phân vạch địa giới hành chính; công tác hộ tịch, quản lý hàng binh, Việt kiều; hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện các chế độ, chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, quân nhân và gia đình quân nhân; đẩy mạnh công tác quản lý nhà đất, công tác phòng cháy và chữa cháy...
Thời kỳ thống nhất, xây dựng xã hội chủ nghĩa trên cả nước và thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1975 đến nay
Sau chiến thắng ngày 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, cán bộ, công chức của Ban Tổ chức của Chính phủ và ngành Tổ chức nhà nước đã làm tốt công tác tham mưu giúp Đảng, Chính phủ và quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao về tổ chức bộ máy nhà nước, công chức, công vụ trong thời kỳ mới. Hoạt động của ngành Tổ chức nhà nước đã góp phần kiện toàn Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của tỉnh, thành phố; tinh giản bộ máy hành chính; xây dựng chính quyền cấp huyện và kiện toàn chính quyền cơ sở...
Giai đoạn này, Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ đã thực hiện tốt chức năng tham mưu, giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chỉ đạo thực hiện tốt việc kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước Việt Nam thống nhất; bước đầu đổi mới công tác xây dựng nền hành chính nhà nước; đổi mới một bước bộ máy chính quyền nhà nước từ Trung ương đến địa phương; từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; tinh giản biên chế... đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn nhất định, đưa đất nước vượt ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội, góp phần từng bước tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi mới đất nước và thúc đẩy sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, tạo đà cho sự phát triển của đất nước trong những năm sau này.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ đã triển khai tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo tinh thần của Hiến pháp 1992 và Luật Tổ chức Chính phủ 1992 (sửa đổi năm 2001), xây dựng các văn bản pháp lý điều chỉnh tổ chức bộ máy của Chính phủ và tổ chức bộ máy chính quyền địa phương các cấp. Tham mưu, đề xuất giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (sửa đổi năm 2003); Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp năm 1994 (sửa đổi năm 2003); xây dựng và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp; Pháp lệnh Cán bộ, công chức; Thường trực Ban Chỉ đạo tiền lương Nhà nước; Thường trực Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ...
Trước những đòi hỏi của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới, Đảng và Nhà nước ta ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của công tác tổ chức và cán bộ trong bộ máy hành chính nhà nước, trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cũng như trong công tác quản lý theo nguyên tắc đa ngành, đa lĩnh vực.
Để đủ sức đảm đương được những trọng trách to lớn, nặng nề đó, cần thiết phải hình thành một Bộ thuộc cơ cấu Chính phủ với tên gọi đúng với vai trò, chức năng mà trước đây đã từng có trong Chính phủ cách mạng đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đó là: Bộ Nội vụ. Do đó, ngày 05/8/2002, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XI đã quyết định đổi tên Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ thành Bộ Nội vụ.
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Bộ Nội vụ và ngành Tổ chức nhà nước đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng nền hành chính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Thể hiện nổi bật trên các lĩnh vực:
Lĩnh vực tổ chức bộ máy, tổ chức chính quyền địa phương: Trên cơ sở rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Bộ Nội vụ đã tham mưu giúp Chính phủ xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi năm 2015). Tham mưu giúp Chính phủ trong việc sắp xếp, tổ chức bộ máy Chính phủ tinh gọn, giảm số Bộ và cơ quan ngang Bộ từ 26 xuống còn 22; khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ và được tổ chức theo mô hình Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Số lượng Vụ, Cục, Tổng cục và các tổ chức tương đương, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ đã giảm nhiều đầu mối tổ chức theo yêu cầu cải cách hành chính. Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện cũng được tổ chức theo hướng tinh gọn, thống nhất và một số cơ quan được tổ chức theo đặc thù riêng của từng địa phương.
Bộ Nội vụ cũng đã tham mưu giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật Tổ chức Chính quyền địa phương (2015) và nhiều văn bản quan trọng về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Qua đó, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc và mối quan hệ công tác của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được thực hiện tốt, bảo đảm gắn kết thống nhất giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng cấp. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện thành công các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Thẩm định và trình Chính phủ quyết định việc phân vạch, điều chỉnh địa giới hành chính phù hợp, sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Củng cố chính quyền cơ sở, tăng cường công khai, minh bạch, bảo đảm sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và Nhân dân trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Lề lối làm việc được cải tiến, thủ tục hành chính được giảm thiểu, tạo sự vận hành thông suốt trong hệ thống bộ máy hành chính nhà nước và đóng góp tích cực vào việc giữ gìn trật tự - trị an, ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Bộ Nội vụ cũng đã tham mưu giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội khóa XIV thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương tại Kỳ họp thứ 8 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2020). Luật đã khắc phục được những hạn chế và luật hóa các chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương theo hướng quy định tiêu chí thành lập tổ chức, sắp xếp tinh gọn đầu mối, giảm cấp trung gian, quy định hợp lý số lượng cấp phó của tổ chức, giảm hợp lý số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp.
Lĩnh vực công vụ, công chức và cải cách tiền lương: Bộ Nội vụ tham mưu giúp Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Cán bộ, công chức (2008), Luật Viên chức (2010) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức (có hiệu lực từ ngày 01/7/2020) nhằm khắc phục những hạn chế và đảm bảo đồng bộ với các quy định mới của Đảng.
Cùng với đó, Bộ Nội vụ đã xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản, đề án quan trọng nhằm đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức, viên chức; thực hiện tinh giản biên chế; xác định vị trí việc làm ...; thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý, làm tiền đề cho việc thay đổi chế độ bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý ở Bộ, ngành và cấp tỉnh, cấp huyện. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng các kỹ năng về quản lý nhà nước đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong bộ máy hành chính; đội ngũ công chức hành chính; đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; cán bộ, công chức cấp xã. Luân chuyển cán bộ, công chức được tiến hành có hiệu quả, phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị có công chức đi và đến.
Với vai trò là thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công, Bộ Nội vụ đã tham mưu trình Chính phủ ban hành chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang (Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ) và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện; tham mưu trình Ban Cán sự đảng Chính phủ báo cáo Bộ Chính trị trình Hội nghị Trung ương 7 khóa XII thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp. Hằng năm, Bộ Nội vụ đã tham mưu trình Chính phủ điều chỉnh tiền lương phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và từng bước cải thiện đời sống cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, nhất là ở những vùng, lĩnh vực đặc biệt khó khăn.
Lĩnh vực cải cách hành chính nhà nước: Thực hiện nhiệm vụ Thường trực Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, Bộ Nội vụ đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành tham mưu giúp Chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch để triển khai cải cách hành chính theo các chủ trương, nghị quyết của Đảng và đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và giai đoạn 2011-2020; xây dựng Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030. Những kết quả đạt được như: thể chế nền hành chính được cải cách phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; tổ chức bộ máy được gọn nhẹ, biên chế được tinh giản; chất lượng, trình độ cán bộ, công chức, viên chức được nâng lên; dân chủ, công khai, minh bạch thông tin đến người dân, tổ chức. Thủ tục hành chính từng bước được đơn giản hóa, ứng dụng công nghệ thông tin và các giải pháp quản lý khoa học trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ngày càng được mở rộng, mang lại kết quả tốt, góp phần tích cực, thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế, dân chủ hóa đời sống xã hội, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, củng cố và duy trì ổn định chính trị.
Lĩnh vực quản lý nhà nước về hội, tổ chức phi chính phủ và công tác thanh niên: Bộ Nội vụ đã tập trung xây dựng các văn bản pháp luật nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hội, tổ chức phi chính phủ theo đúng tinh thần của các Nghị quyết Trung ương. Việc xem xét quyết định thành lập mới và phê duyệt điều lệ các hội, tổ chức phi chính phủ được thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục, bảo đảm sự quản lý của Nhà nước; đồng thời, huy động và phát huy các tổ chức này tham gia có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bên cạnh đó, đã tham mưu giúp Chính phủ xây dựng Luật Thanh niên (sửa đổi); quản lý nhà nước về công tác thanh niên; đã triển khai nhiều chương trình và hoạt động có ý nghĩa như: Dự án tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học tăng cường làm Phó Chủ tịch xã tại 62 huyện nghèo hay Đề án tuyển chọn 500 trí thức trẻ tình nguyện về các xã tham gia phát triển nông thôn, miền núi giai đoạn 2013-2020…, góp phần tăng cường nguồn nhân lực có trình độ, giúp địa phương phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống Nhân dân.
Lĩnh vực quản lý nhà nước về Tôn giáo: Bộ Nội vụ đã tham mưu giúp Chính phủ xây dựng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, tham mưu giúp Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải quyết, xử lý kịp thời các vấn đề liên quan đến tôn giáo; thực hiện tốt những nội dung về quản lý các hoạt động tôn giáo; đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, đảm bảo các hoạt động tôn giáo bình thường diễn ra trong khuôn khổ của pháp luật. Từ đó, từng bước phát huy được những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội, góp phần cùng các cấp, các ngành vận động quần chúng tín đồ, chức sắc chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật của Nhà nước, đoàn kết giữa các tôn giáo với nhau và với các tầng lớp Nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh với những âm mưu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo, cản trở sự nghiệp đổi mới của Nhân dân ta.
Lĩnh vực quản lý nhà nước về Thi đua, Khen thưởng: Bộ Nội vụ đã tham mưu giúp Chính phủ, Quốc hội ban hành các văn bản về công tác thi đua, khen thưởng. Toàn ngành đã đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, mang lại hiệu quả thiết thực, thu hút đông đảo quần chúng tham gia; việc khen thưởng được thực hiện đúng quy định của pháp luật, chú trọng tới việc khen thưởng cho công nhân, nông dân và người lao động trực tiếp, qua đó, đã động viên kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc. Công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến cũng thường xuyên được thực hiện. Chất lượng công tác khen thưởng ngày càng được nâng lên. Tổ chức bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng đã từng bước được củng cố, kiện toàn theo từng giai đoạn.
Lĩnh vực quản lý nhà nước về Văn thư, Lưu trữ: Bộ Nội vụ đã tham mưu giúp Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Lưu trữ và xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành luật. Toàn ngành đã đẩy mạnh triển khai thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường bảo vệ và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ đối với các cơ quan Trung ương, địa phương. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác văn thư, lưu trữ; hoàn thành tốt công tác sưu tầm, thu thập, bổ sung và tổ chức phát huy giá trị tài liệu lưu trữ với nhiều hình thức phong phú, đạt hiệu quả và được xã hội đánh giá cao.
Công tác thanh tra, kiểm tra, công tác pháp chế: Trong những năm qua, Thanh tra Bộ, ngành Nội vụ đã thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị về công tác thanh tra, kiểm tra các lĩnh vực của ngành; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân; công tác phòng, chống tham nhũng và phòng chống tội phạm của Bộ và ngành Nội vụ. Qua đó, đã phát hiện những hạn chế trong cơ chế, chính sách, pháp luật để báo cáo cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội; phát hiện và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý trách nhiệm, thu hồi các quyết định vi phạm pháp luật; giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật… góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ.
Bên cạnh đó, công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của ngành Nội vụ đã thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tiến hành kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành. Tổ chức nhiều hội nghị phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, kịp thời đưa pháp luật đi vào cuộc sống, góp phần quan trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, ứng dụng công nghệ thông tin và thông tin, truyền thông: Sau những thành công của Bộ, ngành Tổ chức nhà nước trong 76 năm qua có sự đóng góp không nhỏ của công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, ứng dụng công nghệ thông tin và thông tin, truyền thông. Việc triển khai các công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước; công chức, công vụ; tiền lương; cải cách hành chính; văn thư, lưu trữ; tôn giáo; thi đua, khen thưởng… đã góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị các luận cứ khoa học cho công tác xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng định hướng, chiến lược, văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, của ngành. Đồng thời, Bộ Nội vụ và toàn ngành cũng đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế, tích cực hợp tác, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm song phương, đa phương với nhiều tổ chức quốc tế và nhiều nước trên thế giới về các nội dung thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ và của ngành. Bên cạnh đó, toàn ngành cũng đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử; tích cực triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều hành; áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức. Thông tin, tuyên truyền các hoạt động trên Cổng/trang thông tin điện tử, các tạp chí, bản tin đảm bảo chính xác, kịp thời.
Với truyền thống vẻ vang 76 năm qua, Bộ Nội vụ, ngành Tổ chức nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đã chung sức, đồng lòng cùng hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước tin cậy, giao phó.