Xác định rõ vướng mắc trong hoạt động giám định tư pháp
Tờ trình dự án Luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội khẳng định mục đích của việc sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp năm 2012 là nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về giám định tư pháp, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đồng thời thực hiện chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác giám định tư pháp, bảo đảm đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng nói chung và trong giải quyết án tham nhũng, kinh tế nói riêng.
Dự án Luật bổ sung 3 điều; sửa đổi, bổ sung 5 điều; sửa đổi, bổ sung 17 khoản và 14 điểm về căn cứ trưng cầu giám định; cách thức trưng cầu và “phân tuyến” thực hiện giám định trong trường hợp vụ việc giám định liên quan đa ngành, đa lĩnh vực; trách nhiệm của cơ quan trưng cầu giám định, cơ quan thực hiện giám định; thẩm quyền trưng cầu và thực hiện giám định; thời hạn giám định; xử lý vi phạm trong hoạt động giám định tư pháp; trách nhiệm của các bộ, ngành chủ quản đối với hoạt động giám định tư pháp; việc áp dụng quy định của Luật này trong thực hiện giám định theo trưng cầu của cơ quan thanh tra.
Thẩm tra dự án Luật, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đánh giá hồ sơ dự án Luật được Chính phủ chuẩn bị nghiêm túc, bảo đảm đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nêu, theo Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật Giám định tư pháp thì “vấn đề ách tắc trong hoạt động giám định tư pháp hiện nay phần nhiều vẫn do khâu nhận thức và tổ chức thực hiện Luật, nhất là từ phía các bộ, ngành chủ quản và các địa phương”.
Kết quả giám sát của Ủy ban Tư pháp về chấp hành pháp luật về giám định tư pháp trong hoạt động tố tụng hình sự cũng cho thấy, hạn chế, vướng mắc nhất hiện nay trong hoạt động giám định tư pháp là công tác giám định theo vụ việc trong các vụ án kinh tế, tham nhũng, tập trung chủ yếu ở loại hình giám định các lĩnh vực: Xây dựng, tài chính, ngân hàng, tài nguyên và môi trường...
Trong đó, có trách nhiệm cả hai phía: Cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định và việc thực hiện giám định của tổ chức, cá nhân được trưng cầu. Do đó, Ủy ban Tư pháp cho rằng hồ sơ dự án Luật cần xác định rõ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động giám định tư pháp do tổ chức thực hiện Luật, trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp chỉ đạo giải quyết. Đối với những vướng mắc do pháp luật, cần xác định rõ nội dung nào cần được sửa đổi trong Luật Giám định tư pháp, nội dung nào cần được sửa đổi, bổ sung trong pháp luật liên quan.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đánh giá các lý do phân tích sự cần thiết ban hành Luật chưa thực sự xác định rõ những vướng mắc hiện hành, gây khó khăn cho hoạt động giám định tư pháp, đặc biệt trong giải quyết án tham nhũng, kinh tế. Trong báo cáo của cơ quan thẩm tra dự án Luật cho rằng, chủ yếu vướng mắc là về thực thi luật, không phải vướng mắc về mặt pháp luật. Do đó phải thể hiện rõ hơn bất cập ở đâu để xác định phạm vi sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, giải quyết đúng mục đích, yêu cầu của xây dựng luật.
Nhiều ý kiến của Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, cần nêu rõ các vướng mắc, bất cập trong hoạt động giám định tư pháp để sửa đổi, bổ sung, khắc phục triệt để những điểm nghẽn đang tồn tại trong công tác này.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Đặng Thuần Phong nêu vấn đề, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định cơ chế để công nhận kết quả giám định pháp y đối với trường hợp bị xâm hại tình dục theo yêu cầu của gia đình bị hại. Trong trường hợp các cơ quan điều tra, xét xử chưa kịp thời thực hiện trưng cầu giám định hoặc trường hợp nạn nhân bị đe dọa, hoặc phát hiện vụ việc quá muộn thì gần như không có kết quả giám định, làm mất đi chứng cứ rất quan trọng, như vậy sẽ bỏ lọt tội phạm.
Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn Thanh Hải cho rằng, có nhiều vụ xâm hại tình dục trẻ em gặp khó, xử lý không kịp thời do những vướng mắc trong công tác giám định. Dẫn luật hiện hành quy định khi phát hiện hành vi xâm hại hoặc dấu hiệu của hành vị bị xâm hại thì người nhà, người thân của nạn nhân phải tiến hành trình báo sự việc với cơ quan công an và trong thời hạn 7 ngày, cơ quan công an sẽ ra quyết định có trưng cầu giám định hay không. Theo đại biểu, quy định 7 ngày là quá dài và cần nghiên cứu để sửa đổi những vướng mắc trong giám định tư pháp về lĩnh vực này để bảo vệ người bị hại.
Cân nhắc quy định “phân tuyến” việc trưng cầu giám định tư pháp
Về quy định “phân tuyến” việc trưng cầu giám định tư pháp (Khoản 4 Điều 25) Điều 21 Luật giám định tư pháp hiện hành quy định: Người trưng cầu giám định có quyền trưng cầu cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 4 Điều 2 của Luật này thực hiện giám định (Khoản 1) và có nghĩa vụ lựa chọn tổ chức hoặc cá nhân thực hiện giám định phù hợp với tính chất, yêu cầu của vụ việc cần giám định (Khoản 2), mà không có quy định giới hạn lựa chọn tổ chức, cá nhân giám định tư pháp theo cấp cơ quan giám định.
Khoản 4 Điều 25 dự thảo Luật bổ sung quy định theo hướng “phân tuyến” việc trưng cầu và tiếp nhận trưng cầu giám định tư pháp lần đầu theo thứ tự cấp tỉnh, khu vực và Trung ương. Theo Tờ trình của Chính phủ, quy định này nhằm khắc phục tình trạng cơ quan tố tụng khi giải quyết các vụ án kinh tế, tham nhũng, chỉ tập trung trưng cầu một số bộ, cơ quan ngang bộ, mà ít trưng cầu cơ quan, tổ chức giám định tư pháp ở địa phương, gây quá tải cho các cơ quan Trung ương.
Quan điểm của cơ quan thẩm tra cho rằng, việc bổ sung quy định này là không cần thiết, vì theo Báo cáo tổng kết thi hành Luật Giám định tư pháp cho thấy, hệ thống tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự hiện nay đang đáp ứng tốt yêu cầu của hoạt động tố tụng và không có vướng mắc lớn.
Đối với việc giám định tư pháp theo vụ việc, số lượng trưng cầu giám định vụ việc trong các vụ án kinh tế, tham nhũng tại các bộ, cơ quan ngang bộ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, không đủ cơ sở để xác định quá tải công việc. Hơn nữa, trưng cầu giám định là hoạt động mang tính chuyên môn, khoa học, theo quy định tại khoản 4 Điều 41 Luật Giám định tư pháp, các tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc do các bộ, cơ quan ngang bộ công nhận và công bố, không phân cấp Trung ương và địa phương.
Việc trưng cầu tổ chức giám định, người giám định theo vụ việc nào là quyền lựa chọn của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án cụ thể. Việc bổ sung quy định trên tạo ra sự mâu thuẫn giữa Điều 21 và Điều 25 của Luật.
Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Duy Ngọc cùng quan điểm với Ủy ban Tư pháp, nhấn mạnh hoạt động giám định tư pháp là hoạt động độc lập, đáp ứng yêu cầu trong hoạt động tố tụng. Đối với yêu cầu đặt ra thì cơ quan yêu cầu giám định có quyền trưng cầu những cơ quan đáp ứng được yêu cầu để thực hiện giám định. Theo Thứ trưởng Nguyễn Duy Ngọc, nếu "phân tuyến" như dự thảo sẽ không đảm bảo được hoạt động độc lập, khách quan.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thị Phương Hoa không cùng quan điểm này. Thứ trưởng nêu thực trạng thời gian vừa qua Bộ nhận được rất nhiều yêu cầu giám định tư pháp, tuy nhiên nhân lực để thực hiện có hạn. Để đáp ứng được tất cả các đề xuất của địa phương, trung ương, về phía Bộ đang rất quá tải. "Cần cân nhắc có "phân tuyến" trung ương, địa phương, nếu chuyển hết về Trung ương rất là khó" - Thứ trưởng Nguyễn Thị Phương Hoa nêu quan điểm.