Thưa đại biểu, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần 2 trình Quốc hội mới đây đã có nhiều điểm mới so với Dự thảo trước, đại biểu đánh giá như thế nào về Dự thảo này?
Với hơn 12,1 triệu lượt ý kiến, trong đó có gần 10,8 triệu lượt góp ý qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, đã cho thấy việc lấy ý kiến Nhân dân về dự án Luật Đất đai (sửa đổi) là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý sâu rộng, là dịp để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình và thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai.
Tôi đánh giá cao việc Chính phủ đã khẩn trương tiếp thu ý kiến góp ý của Nhân dân và ý kiến các vị ĐBQH để chỉnh lý dự thảo Luật. Ngày 6/6/2023 đã đăng tải Báo cáo Tổng hợp kết quả lấy ý kiến nhân dân trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.
Điều 53 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
Tại Mục 1 Chương 2 Dự thảo Luật lần này quy định về quyền, trách nhiệm của Nhà nước với tư cách là đại diện Chủ sở hữu. Còn Điều 16 và Điều 18 quy định trách nhiệm và mối quan hệ giữa Nhà nước với người sử dụng đất là cá nhân, tổ chức cụ thể được xác định tại Điều 6. Tuy nhiên, chưa có quy định về trách nhiệm cũng như mối quan hệ giữa Nhà nước với tư cách là người đại diện và Nhân dân với tư cách là Chủ sở hữu đất đai. Vậy trường hợp nào phải do Nhân dân quyết định? Nội dung này cần được nghiên cứu bổ sung trong Dự thảo Luật.
Bên cạnh đó, quy định về sở hữu đất đai tại Điều 5 Dự thảo Luật trình Quốc hội tại kỳ 4 là quy định có tính chất cơ bản, lại được chuyển sang Điều 13 của Dự thảo lần này, xếp sau các quy định về người sử dụng đất và các quy định chung khác.
Tôi đề nghị sắp xếp lại theo thứ tự các nội dung như đã xác định trong Điều 1 về phạm vi điều chỉnh.
Việt Nam là quốc gia đất chật, người đông. Theo Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, tổng diện tích đất các loại là 36,7 triệu ha, trong khi đó dân số hiện nay đã vượt ngưỡng 100 triệu người.
Với 33,1 triệu ha đất tự nhiên, trong đó có hơn 27 triệu ha đất nông nghiệp, Việt Nam đứng thứ 156 trên thế giới và thứ 9 trong khu vực ASEAN về chỉ tiêu diện tích đất theo đầu người. Tỷ lệ này sẽ còn giảm với tốc độ tăng dân số của nước ta hiện nay. Đây là yếu tố cần được xem xét, đánh giá kỹ.
Đất đai là tài nguyên hữu hạn, cho nên có thể trong giai đoạn hiện nay, thậm chí ở thế hệ này chúng ta, chưa có điều kiện để khai thác tốt nhất, thì chúng ta cần tiếp tục tăng cường quản lý, gìn giữ và bảo vệ làm "của hồi môn" các thế hệ mai sau sử dụng hiệu quả hơn. Đây cũng chính là nguyên lý của phát triển bền vững, theo đó, việc sử dụng đất một mặt đáp ứng các nhu cầu của hiện tại, nhưng mặt khác không làm tổn thương đến khả năng của các thế hệ tương lai.
Vì vậy, tôi đề nghị bổ sung nguyên tắc "bền vững" trong sử dụng đất vào Điều 6 Dự thảo Luật làm căn cứ, cơ sở cho việc xác lập các chính sách trong Dự thảo Luật. Bền vững cũng đã được xác định là nguyên tắc trong lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (K 3 Điều 60), trong lấn biển (K2 Điều 190) và trong sử dụng công trình ngầm (K4 Điều 214) Dự thảo Luật.
Một trong những nội dung được người dân đặc biệt quan tâm tại Dự thảo Luật này là vấn đề thu hồi đất, bồi thường, tái định cư. Từ thực tế địa phương, đại biểu có ý kiến gì về nội dung này trong dự thảo?
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là chế định được Nhân dân quan tâm, đóng góp ý kiến nhiều nhất, với hơn 1,2 triệu lượt.
Khoản 3 Điều 90 Dự thảo Luật quy định: Người có quyền sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật dân sự mà bị thiệt hại về tài sản gắn liền với đất thì được bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, Dự thảo Luật lại chưa xác định việc bồi thường thiệt hại này được thực hiện theo quy định của pháp luật nào?
Trên thực tế, khi Nhà nước thu hồi đất, đối với tài sản trên đất như nhà cửa, cây cối .... là tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, thì khi thu hồi phải thực hiện cơ chế thỏa thuận dân sự về bồi thường thiệt hại, chứ không thể áp dụng phương pháp hành chính như đối với đất.
Do đó, đề nghị bổ sung việc bồi thường thiệt hại tài sản gắn liền với đất phải được thực hiện theo nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự, để vừa đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng đất, vừa đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ với Bộ luật Dân sự.
Về cơ chế thỏa thuận, so với Điều 73 của Luật Đất đai hiện hành, Điều 127 Dự thảo Luật đã mở rộng phạm vi, đối tượng và trường hợp áp dụng cơ chế thỏa thuận để thực hiện dự án phát triển kinh tế xã hội. Đây là điểm tiến bộ lớn, là cơ chế cần được khuyến khích, thúc đẩy.
Điểm C khoản 3 Điều 127 Dự thảo Luật quy định một trong các điều kiện áp dụng cơ chế thỏa thuận là: “Có văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về việc thỏa thuận quyền sử dụng đất để thực hiện dự án”.
Tuy nhiên, tôi đề nghị làm rõ giá trị pháp lý của văn bản này thế nào? trường hợp nhà đầu tư và người sử dụng đất có tranh chấp thì có thể sử dụng văn bản này làm căn cứ giải quyết hay không? Bên cạnh đó, đề nghị làm rõ việc xin văn bản này được thực hiện trong giai đoạn nào? đây có phải là thủ tục hành chính không? Trường hợp nhà đầu tư sau khi thỏa thuận và có quyền sử dụng đất nhưng dự án đầu tư thuộc trường hợp chấp thuận chủ trương đầu tư thì có phải thực hiện 2 thủ tục là Thủ tục về chấp thuận thỏa thuận quyền sử dụng đất và Thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư hay không?
Theo đại biểu, tại Dự thảo luật lần này, vấn đề đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số đã đáp ứng kỳ vọng của người dân hay chưa?
Nghị quyết số 18 của Trung ương yêu cầu tập trung nguồn lực đầu tư, chỉ đạo quyết liệt và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Báo cáo số 139 của Chính phủ tổng hợp ý kiến Nhân dân cho thấy, rất nhiều ý kiến liên quan đến đất đai cho đồng bào thiểu số được đề cập. Tuy nhiên, ngoài quy định nghĩa vụ "bảo đảm" đất ở, đất sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tại khoản 1 Điều 17; bổ sung quyền của người sử dụng đất là người DTTS tại khoản 1 Điều , thì các quy định khác tại 4 Điều: 49, 157, 180 và 181 của Dự thảo cơ bản giữ như Luật hiện hành, không mang tính đột phá, chưa tạo cơ chế để giải quyết dứt điểm những hạn chế, khó khăn về đất đai cho đồng bào.
Đối với đồng bào DTTS, đất đai không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế, mà còn có ý nghĩa về tâm linh. Do đó, phải quan tâm đến văn hóa, phong tục, tập quán, truyền thống của đồng bào khi đưa ra các quy định về đất đai. Tại kỳ họp thứ 4, đã có ý kiến ĐBQH đề nghị xem xét quy định một chế định riêng (có thể là một mục riêng) với những nội dung cụ thể về đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Xin trân trọng cảm ơn Đại biểu!