Do vậy, tìm giải pháp đồng bộ, có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện của từng địa phương để phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại, khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa lâu dài.
Thiên tai phức tạp
Tại Việt Nam, từ đầu năm 2022 đến nay, tình hình thiên tai diễn ra phức tạp, cực đoan, trái quy luật như: mưa lũ trái mùa kèm theo dông, lốc lớn trên diện rộng, bão gây mưa lớn...
Từ ngày 30/3 - 2/4, mưa lớn tại khu vực miền Trung đã gây thiệt hại rất nặng nề, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Từ 15-28/4 đã liên tiếp xảy ra 41 trận động đất trên địa bàn huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Trong tháng 4, 5 đến giữa tháng 6, nhiều đợt mưa lớn kéo dài với các giá trị vượt mức lịch sử tại Bắc Bộ…
Mưa lớn kéo dài ở miền Bắc đã gây sạt lở đất, lũ quét khu vực miền núi, ngập lụt đô thị, khu công nghiệp (đặc biệt ngập lụt các khu vực đô thị như: Hà Nội, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang,…). Các hồ chứa Sơn La, Hòa Bình, Tuyên Quang đã phải vận hành xả lũ và duy trì trong một thời gian khá dài (đây là một năm hiếm thấy kể từ khi hệ thống liên hồ chứa đi vào khai thác, vận hành). Mực nước trên một số tuyến sông thuộc hạ lưu hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình đã lên báo động 2, báo động 3, có nơi trên báo động 3, đe doạ an toàn hệ thống đê điều.
Từ đầu năm 2022 đến ngày 13/8, thiên tai đã làm 82 người chết và mất tích, thiệt hại về kinh tế ước khoảng trên 4 nghìn tỷ đồng. Theo Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng chống thiên tai, tính đến 18 giờ ngày 13/8, mưa lớn và hoàn lưu bão số 2 đã làm 7 người chết (Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang); 2 người mất tích (Lào Cai); 129 nhà bị ảnh hưởng và thiệt hại (Hòa Bình, Yên Bái, Tuyên Quang); 1.233 ha lúa, hoa màu bị ảnh hưởng, thiệt hại (Hòa Bình, Bắc Giang, Phú Thọ).
Nhận định về nguyên nhân thảm họa thiên tai, đặc biệt là mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục phòng, chống thiên tai Nguyễn Văn Tiến cho rằng, nguyên nhân khách quan là do biến đổi khí hậu, cụ thể là địa hình đồi núi khu vực có độ dốc cao, chia cắt mạnh, kết cấu đất vùng núi phần lớn là bở rời, dễ sạt trượt, kết hợp với mưa vượt mức lịch sử nên lũ tập trung nhanh, gây ra sạt lở đất, lũ quét.
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến thiệt hại nặng về người và tài sản là do nhận thức, mức độ quan tâm của chính quyền, người dân một số nơi còn hạn chế, chưa tập trung đề ra giải pháp cụ thể cũng như đầu tư thích đáng cho công tác phòng, chống thiên tai. Vẫn còn tình trạng khai thác cát quá mức khiến cho bờ sông, bờ biển bị sói lở; khai thác rừng nguyên sinh khiến cho lớp thảm thực vật bị suy giảm, mất cân bằng hệ sinh thái tự nhiên, tác dụng giữ nước của đất rừng kém, làm gia tăng lũ lụt, sạt lở đất ở các khu vực trung du và miền núi.
Theo Phó Tổng cục trưởng Nguyễn Văn Tiến, hệ thống tổ chức bộ máy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tại địa phương hầu hết là kiêm nhiệm, hoạt động thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu trang thiết bị chuyên dùng, công cụ hỗ trợ theo dõi, giám sát, kết nối chỉ đạo điều hành... nên dẫn đến lúng túng, bị động trong ứng phó, khắc phục hậu quả đối với tình huống thiên tai lớn, trên diện rộng. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu trong công tác phòng, chống thiên tai còn rất hạn chế, đặc biệt đối với lũ quét, sạt lở đất.
Nâng cao năng lực cảnh báo, dự báo sớm
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phó Trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai Lê Minh Hoan cho rằng, để chủ động giảm thiểu rủi ro, thiệt hại do thiên tai, các cấp cần hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật phòng, chống thiên tai; xây dựng chiến lược, bản đồ cảnh báo phù hợp; thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng; kiểm soát việc đầu tư xây dựng công trình gắn với biến đổi khí hậu... đồng thời thực hiện tốt công tác cảnh báo, dự báo sớm để phòng, chống thiên tai một cách chủ động, giảm thiểu thiệt hại.
Để thực hiện tốt công tác dự báo, cảnh báo sớm, ngành Khí tượng Thủy văn đã mở rộng thời hạn dự báo thời tiết, cảnh báo sớm thiên tai tới 10 ngày, nội dung và hình thức bản tin đã có nhiều thay đổi, tập trung cung cấp các thông tin dự báo ở quy mô nhỏ hơn (cấp huyện, cấp xã) và thời gian dài hơn. Các sản phẩm dự báo mùa cũng được mở rộng hạn dự báo, hàng năm đã có bản tin nhận định thiên tai năm (ban hành 2 lần/năm).
Hiện tại, dự báo bão, áp thấp nhiệt đới đã nâng lên 3 ngày, cảnh báo 5 ngày; dự báo, cảnh báo mưa lớn trước 2-3 ngày, cảnh báo dông sét trước từ 30 phút đến 2-3 giờ. Các đợt rét đậm, rét hại cảnh báo trước 5-7 ngày, dự báo trước 2-3 ngày.
Cùng với đó, dự báo thời tiết biển đã có những đổi mới vượt bậc do tiếp thu các công nghệ mới của nước ngoài. Độ phân giải cho mô hình dự báo sóng đã được chi tiết đến 4 km, dự báo sóng với hạn dự báo đến 10 ngày.
Thời điểm ban hành các bản tin bão hiện nay cũng sớm hơn trước đây từ 30 phút đến 1 giờ. Các bản tin thiên tai khác như nắng nóng, không khí lạnh, mưa lớn đều được ban hành sớm hơn 30 phút so với trước đây.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học hiện đại, ngành Khí tượng Thủy văn có nhiều công cụ hỗ trợ như các ảnh mây vệ tinh, ảnh radar và những mô hình dự báo thời tiết từ hạn cực ngắn đến dự báo từng ngày và cả những mô hình dự báo khí hậu. Do đó, công tác dự báo, cảnh báo khí tượng ngày càng sát với thực tế, hiệu quả đối với đất nước.
Để công tác phòng, chống thiên tai đạt hiệu quả, Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng, chống thiên tai Trần Quang Hoài cho biết, trong công tác ứng phó với thiên tai, các bộ, ngành, địa phương cần tổ chức trực ban nghiêm túc, theo dõi, giám sát chặt chẽ tình hình diễn biến của thiên tai, nhất là lũ quét, sạt lở đất khu vực miền núi, mưa, lũ lớn, bão mạnh; bảo vệ an toàn cho hệ thống đê điều, hồ đập xung yếu; tham mưu kịp thời, chính xác cho Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai (Tổng cục Phòng, chống thiên tai) để chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương chuẩn bị sẵn sàng ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai được kịp thời, hiệu quả...
Cùng với đó, Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai cần thực hiện việc hướng dẫn và đôn đốc địa phương triển khai thực hiện Bộ chỉ số đánh giá công tác phòng, chống thiên tai cấp tỉnh năm 2022; xây dựng hệ thống giám sát hạn hán, xâm nhập mặn phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành ứng phó với thiên tai thí điểm tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; thực hiện rà soát, đề xuất điều chỉnh Quy hoạch phòng, chống lũ và quy hoạch đê điều hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình.
Thời gian tới, Tổng cục Phòng, chống thiên tai tiếp tục tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực quản lý thiên tai, hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia và công cụ theo dõi, giám sát, hỗ trợ chỉ đạo, điều hành ứng phó với thiên tai, cũng như xây dựng các công trình phòng, chống thiên tai…; huy động nguồn lực từ các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước; triển khai các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Đồng thời, Tổng cục phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí, Trung ương và địa phương để tuyên truyền về công tác chỉ đạo, ứng phó kịp thời tới các cấp chính quyền và người dân; phát triển các trang mạng xã hội (facebook, zalo, youtube, Tiktok) của Tổng cục với nhiều chương trình, tin bài hấp dẫn, tăng tính tương tác và thu hút sự tham gia của người dùng.
Trong năm 2022, Tổng cục Phòng, chống thiên tai sẽ hoàn thiện Kế hoạch cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ xử lý công việc nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và chỉ đạo điều hành phòng, chống thiên tai; tập trung đào tạo bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ; triển khai các phong trào thi đua có hiệu quả, tổ chức kiểm tra, đánh giá, nhân rộng các mô hình điển hình trong công tác phòng, chống thiên tai.