Theo Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê K’đăm, miền núi chiếm 3/4 diện tích đất liền cả nước, địa bàn cư trú chủ yếu của các dân tộc thiểu số (DTTS), là vùng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng của đất nước.
Xuất phát từ yêu cầu và tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế - xã hội địa bàn miền núi, ngày 27/11/1989, Bộ Chính trị khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW “Về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi”. Để triển khai thực hiện Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã tiến hành việc phân định tỉnh, huyện, xã miền núi, vùng cao.
Kết quả phân định là các căn cứ quan trọng để Nhà nước ban hành một số cơ chế, chính sách ưu tiên, hỗ trợ đầu tư nhằm phát triển kinh tế - xã hội các địa phương miền núi, ổn định và nâng cao đời sống cho đồng bào miền núi, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS).
Năm 1996, triển khai Nghị quyết của Chính phủ về thực hiện Chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải đảo (gọi tắt là Chương trình 135), Chính phủ đã phân định các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) theo trình độ phát triển (3 khu vực), bao gồm cả các xã vùng dân tộc ở đồng bằng.
Như vậy, từ năm 1996 đã hình thành hai phân định là miền núi, vùng cao (MN, VC) và phân định vùng DTTS&MN theo trình độ phát triển; đồng thời, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ đã ban hành thêm một số hình thức phân loại: Phân định địa bàn khu vực biên giới trên đất liền và trên biển; Phân loại xã bãi ngang ven biển và hải đảo; Phân loại đơn vị hành chính cấp xã vùng khó khăn; Phân loại đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn. Mỗi phân định, phân loại có các tiêu chí khác nhau, mục đích, phạm vi, đối tượng để ban hành chính sách trong lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau.
Theo đánh giá của Thường trực Hội đồng Dân tộc, mục đích, việc phân định xã, huyện, tỉnh là MN,VC là việc làm cần thiết, làm cơ sở, căn cứ cho việc tổ chức các giải pháp quản lý nhà nước và xây dựng một số chính sách phù hợp về đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội, ổn định đời sống cho cư dân tại chỗ.
Kết quả phân định đã được thể hiện bằng quyết định công nhận xã, huyện, tỉnh là MN,VC; đã và đang là các căn cứ quan trọng phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước và xây dựng cơ chế, pháp luật, chính sách, tổ chức thực hiện chính sách trên địa bàn xã, huyện, tỉnh là MN,VC. Bên cạnh đó Hội đồng Dân tộc cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế, đó là về tiêu chí phân định MN,VC chưa thực sự bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn, tính phù hợp và tính đồng bộ giữa một số phân định. Các tiêu chí chính để xác định MN,VC còn quá giản đơn, chỉ căn cứ yếu tố độ cao so với mặt nước biển và tiêu chí số đơn vị hành chính để xác định là là tỉnh, huyện, xã là MN,VC.
Các tiêu chí liên quan đến yếu tố tự nhiên như độ dốc, độ phân cắt, đất đai sản xuất nông nghiệp, là những yếu tố bất biến tạo nên tính đặc thù của từng vùng... chưa được thể hiện. Do đó, phân định MN,VC trên thực tế hiện nay không phản ảnh đúng tính chất, tương quan giữa các địa phương, các vùng. Điều này tạo nên sự chênh lệch đáng kể trong kết quả phân định, xếp loại đơn vị hành chính, dẫn đến thiếu sự tập trung ưu tiên và phân tán nguồn lực cũng như bảo đảm sự phù hợp của các quy định chính sách.
Bên cạnh đó, trong hệ thống văn bản pháp luật, chính sách hiện nay, nhiều văn bản pháp luật quy định phạm vi quá rộng cho nhiều vùng và chưa thống nhất về nội hàm các khái niệm dẫn đến việc quy định đối tượng chính sách chưa cụ thể theo tính chất chính sách, đôi khi chồng lấn, khó cụ thể hóa và tổ chức thực hiện, làm giảm hiệu quả chính sách.
Tiếp đến là công tác tổng kết, kiểm tra, đánh giá việc phân định chưa được thực hiện kịp thời, việc phân định xã, huyện, tỉnh là MN,VC được thực hiện từ năm 1993 đến nay đã 28 năm, nhưng các cơ quan quản lý, chủ trì chưa có hoạt động tổng kết, đánh giá; cơ sở pháp lý của văn bản quy định tiêu chí MN,VC chưa bảo đảm (chỉ căn cứ vào tờ trình của Văn phòng Miền núi và dân tộc năm 1993). Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg về tiêu chí phân định vùng đồng bào DTTS&MN theo trình độ phát triển giai đoạn 2021-2025.
Tuy nhiên, đối với việc phân định MN,VC vẫn chưa được triển khai xây dựng theo Nghị quyết số 69/2018/QH14 của Quốc hội.
Phát biểu tại phiên họp Thường vụ Quốc hội đồng thuận cao với việc phân định MN, VC trong công tác quản lý nhà nước hiện nay mà Hội đồng Dân tộc của Quốc hội báo cáo.
Tiếp thu ý kiến của các đồng chí trong Thường vụ Quốc hội góp ý, đồng chí Hầu A Lềnh, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc đã giải trình thêm những vấn đề mà Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề cập và kiến nghị Hội đồng Dân tộc của Quốc hội tiếp tục có những nghiên cứu, đánh gía thêm làm sâu sắc, toàn diện hơn về MN, VC.
Phát biểu kết luận Phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, trong thời gian tới, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc tiếp tục phối hợp với Ủy ban Dân tộc của Chính phủ thực hiện một số nội dung sau:
Tiến hành tổng kết, đánh giá toàn diện hiệu quả của việc phân định MN, VC cùng với việc xem xét các hình thức phân định khác. Rà soát các văn bản chính sách, pháp luật có liên quan đến MN, VC, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ các quy định trong hệ thống chính sách pháp luật Việt Nam. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung tiêu chí và phân định MN, VC làm cơ sở thống nhất đồng bộ trong việc thực hiện chính sách pháp luật trong giai đoạn tiếp theo.