Chiến tranh lùi xa đã bốn mươi lăm năm kể từ ngày 30/4/1975, song mỗi vết thương trên người họ, mỗi hình ảnh về những đoàn quân ra trận, những lần đi qua lằn ranh mỏng manh của sự sống và cái chết trong các trận đánh đều là minh chứng sống động về một thời gian khổ mà vinh quang.
Hướng về phương Nam
Xã Hòa Xá nằm ở phía Tây Nam của huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây cũ, nay là thành phố Hà Nội. 55 năm trước, nơi đây là khởi nguồn của phong trào “Chiếc gậy Trường Sơn” với sức lan tỏa rộng rãi, cổ vũ kịp thời tinh thần đấu tranh của lớp lớp thanh niên cả nước lên đường tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Chứng kiến khí thế sục sôi của những người lính trẻ vai khoác ba lô, tay mang theo “Chiếc gậy Trường Sơn” hành quân hướng về phương Nam trên tuyến lửa năm xưa là ông Phùng Văn Mạnh, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Hòa Xá - người từng tham gia các trận đánh trên chiến trường Đông Nam bộ trong Sư đoàn 5, Quân khu 7. Mở chuyện về ý nghĩa, khởi nguồn của phong trào “Chiếc gậy Trường Sơn”, người lính năm xưa cho biết: Từ giữa những năm 60 của thế kỷ trước, đế quốc Mỹ tăng cường lực lượng tấn công miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại hậu phương miền Bắc. Với tinh thần cả nước là một chiến trường, thanh niên, học sinh, sinh viên ở miền Bắc ngoài việc học tập và phục vụ xây dựng hậu phương lớn Xã hội chủ nghĩa, đã cháy bỏng nguyện vọng lên đường chi viện cho miền Nam đánh Mỹ.
Cũng thời điểm này, xã Hòa Xá đã có sáng kiến thành lập phân đội dự bị để sẵn sàng lên đường nhập ngũ, vào Nam chiến đấu. Xã rà soát kỹ lực lượng thanh niên và tổ chức rèn luyện bằng cách để họ hành quân, đeo ba lô nặng. Trong những buổi tập luyện, người Hòa Xá có sáng kiến làm cây gậy chống để chặng đường hành quân đỡ mệt. Năm 1966, ba người con của Hòa Xá là Đỗ Tít, Lưu Long, Phùng Quán trên đường hành quân vào miền Nam, gặp đồng đội chuẩn bị ra miền Bắc đã gửi về quê hương ba chiếc gậy Trường Sơn nhằm báo tin cho gia đình yên tâm.
“Những chiếc gậy đó đã mòn vẹt chỗ tay cầm, trên thân gậy khắc ghi những dòng chữ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Phía đầu gậy có chữ nhỏ hơn “Trường Sơn 1/4/1967”, phía cuối gậy khắc những cái tên của từng người lính cùng chữ “Hòa Bình” là nơi đóng quân”, ông Phùng Văn Mạnh hồi nhớ.
Nhận được kỷ vật là những chiếc gậy từ Trường Sơn gửi ra, cùng với sự kiện Đoàn cán bộ tỉnh Nam Hà (cũ) đến thăm xã, gửi tặng một chiếc nhẫn làm từ xác máy bay giặc Mỹ, chính quyền và nhân dân xã Hòa Xá đã nhân rộng thành phong trào “Trao gậy hành quân” và “Tặng nhẫn chung thủy”. Phụ lão trong xã đã cất công đi tìm những thân tre ngà thật đẹp, tỉ mỉ đẽo gọt làm gậy hành quân tặng con cháu trong ngày lên đường. Trên mỗi cây gậy đều khắc câu thơ: “Gậy này là gậy Trường Sơn/Của trai Hòa Xá lên đường tòng quân”.
Với những chàng trai nhập ngũ đã có người yêu, Hội Phụ nữ xã phối hợp với Đoàn Thanh niên tổ chức tặng “Nhẫn chung thủy trọn nghĩa vẹn tình” được kỳ công mài giũa từ xác máy bay giặc. Những người mẹ của chiến sĩ ra trận thành lập Hội mẹ chiến sĩ may cờ, thêu dòng chữ “Ra đi là chiến thắng” gửi tặng thanh niên.
“Từ việc rèn quân, tặng gậy, quê hương Hòa Xá nhận được gậy bộ đội của làng gửi về, năm 1967, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã sáng tác ca khúc “Chiếc gậy Trường Sơn". Hòa Xá bỗng trở nên nổi tiếng khắp các tỉnh, thành miền Bắc bởi một sáng kiến độc đáo về tổ chức phong trào động viên, huấn luyện tân binh sẵn sàng lên đường vượt Trường Sơn vào tuyến lửa. Năm 1973, lực lượng vũ trang nhân dân xã Hòa Xá được tuyên dương là Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân”, ông Phùng Văn Mạnh nhớ lại.
Tiến về Sài Gòn
Như lời hiệu triệu, phong trào “Chiếc gậy Trường Sơn” đã góp phần thôi thúc thanh niên Hòa Xá cũng như trên toàn miền Bắc tòng quân khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt. Hơn 1,5 triệu thanh niên miền Bắc đã gia nhập quân đội trong tổng số hơn 3 triệu người được huy động phục vụ cho chiến tranh, chiếm hơn 12% số dân miền Bắc. Miền Bắc có tới hơn 70% số hộ có người thân chiến đấu trên các chiến trường; trên đồng ruộng, phụ nữ chiếm hơn 63% số lao động trực tiếp, để nam giới đi đánh giặc, cứu nước.
Riêng thanh niên Hòa Xá, ngoài tình yêu Tổ quốc, tiếng gọi non sông, họ còn niềm tự hào, hãnh diện quê hương của “Chiếc gậy Trường Sơn”. Tình cảm đó giúp họ hướng ra tiền tuyến với một nghị lực phi thường, ý chí quyết chiến, quyết thắng không gì lay chuyển nổi. Như trường hợp ông Đỗ Ngọc Bình, một xạ thủ của Đại đội 16, Trung đoàn 24, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2.
Nói đến việc du kích xã Hòa Xá nhận danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, người lính già bất chợt nhắm nghiền mắt lại. Những lời nói nghẹn nửa chừng xen những giọt nước mắt giàn giụa về ký ức một trưa hè ở mặt trận Quảng Trị. Hôm ấy, anh lính Đỗ Ngọc Bình được Đại đội trưởng gọi lên gặp rồi đặt vào tay tờ báo và bảo: “Cậu là người Hòa Xá đúng không. Đơn vị du kích Hòa Xá quê cậu được phong Anh hùng đấy!”. Lúc đó, người lính trẻ bật khóc. Những giọt nước xúc động, sung sướng và tự hào, hãnh diện.
“Tình cảm, niềm tự hào quê hương là động lực giúp người lính hăng hái, tiên phong hơn. Trước những trận đánh, sau khi đào xong công sự, tôi thường nằm nghe tiếng côn trùng rả rích. Lúc ấy, có biết bao nhiêu hình ảnh quê hương, gia đình, bạn bè, những kỷ niệm thân thương… Nhưng khi pháo hiệu tấn công vạch một đường sáng rực trên bầu trời, tất cả tan biến hết, trong tâm trí chỉ có duy nhất ý nghĩ là lao về phía trước nổ súng”, ông Đỗ Ngọc Bình xúc động kể.
“Chiến tranh khó khăn, gian khổ, ác liệt lắm. Hôm nay xuất kích 47 tay súng nhưng ngày mai chỉ còn vài người. Có những lần, mình trong công sự, trên đầu là pháo, bom, đạn bắn như mưa, tiếng nổ đinh tai nhức óc. Địch bắn nhồi lên nhồi xuống. Lúc đó, chỉ duy nhất ý nghĩ là: Quả nào sẽ trúng mình đây? Nhưng lượt bắn qua đi, cùng với ý nghĩa “mình còn sống” là hiệu lệnh tấn công. Lúc đó, lại nhanh nhẹn xách súng lao ra khỏi công sự, hướng về phía trước”, ông Đỗ Ngọc Bình hồi nhớ.
Nhắc đến những ngày tháng Tư năm 1975, tâm trí người xạ thủ già của Sư đoàn 304 miên man hình ảnh Quân đoàn 2 sau khi giải phóng Đà Nẵng, dàn thành hàng dọc dài dằng dặc trên Quốc lộ 1 hướng về mục tiêu cuối cùng là Dinh Độc Lập. Xe tăng, pháo binh, bộ binh nối nhau đi ầm ầm với khí thế “Thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa”. Là hình ảnh những đoàn xe tiến vào Sài Gòn sáng 30/4 và người lính trẻ Đỗ Ngọc Bình tay xách súng, đứng ở nội đô, trong đầu là ý nghĩ “Thắng rồi, đất nước thống nhất rồi!”.
Người lính già lại khắc khoải thương nhớ những đồng đội, đồng ngũ, đồng chí năm xưa đã hy sinh ngay trước giờ hợp điểm tại Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975. “Họ đã nằm xuống khi đánh chiếm cụm căn cứ Long Thành - Nước Trong, căn cứ hải quân Cát Lái, chi khu Long Bình, Tổng kho Long Bình, pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, diệt các ổ đề kháng…”, ông Đỗ Ngọc Bình xúc động nói.
Bài cuối: Non sông một dải