Hiện Việt Nam có khoảng 30% dân số là đối tượng cần sự trợ giúp. Trong đó có 11,9 triệu người cao tuổi, khoảng 1,227 triệu hưởng trợ cấp người có công với cách mạng, 6,2 triệu người khuyết tật, trên 9 triệu người có vấn đề sức khỏe tâm thần, 2 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, có khoảng 2,23% hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều, 3,37% hộ cận nghèo, hơn 3,5 triệu đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, khoảng 2 triệu lượt hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất hàng năm. Ngoài ra, còn nhiều phụ nữ, trẻ em bị ngược đãi, bị mua bán, bị xâm hại hoặc lang thang kiếm sống trên đường phố.
Để tăng cường quản lý và thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 708/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 phê duyệt Đề án xây dựng Cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về an sinh xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào giải quyết chính sách an sinh xã hội đến năm 2020 và định hướng phát triển đến năm 2030 với mục tiêu là: Ứng dụng CNTT trong việc giải quyết chính sách an sinh xã hội cho người dân; góp phần cải cách thủ tục hành chính; xây dựng CSDL an sinh xã hội đồng bộ, thống nhất, bảo đảm quản lý, cập nhật, khai thác thông tin an sinh xã hội chính xác, kịp thời, minh bạch và hiệu quả; đáp ứng nhu cầu thông tin quản lý của các cấp, các ngành và đối tượng có liên quan.
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) Nguyễn Văn Hồi cho biết kinh phí chi trả cho lĩnh vực người có công khoảng 35.000 tỷ đồng/năm, lĩnh vực bảo trợ xã hội khoảng 22.000 tỷ đồng/năm, chi trả lương hưu với khoảng 2,7 triệu người cũng hơn 100.000 tỷ đồng/năm... Tổng chi trả chính sách và các chương trình trợ giúp xã hội ước tính 5 tỷ USD/năm.
Trong khi đó, các đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh xã hội cũng ngày càng được mở rộng, mức trợ giúp ngày càng cao hơn, lượng công việc ngày càng quá tải với các cơ quan chức năng. Việc thí điểm chi trả, thanh toán chế độ không dùng tiền mặt áp dụng tại một số bộ, ngành, địa phương đã cho thấy những lợi ích rõ rệt, thuận tiện cho người thụ hưởng, đảm bảo chính sách minh bạch hơn, chống tiêu cực.
"TTĐT trong thực hiện các chương trình trợ giúp xã hội là xu thế mà nhiều quốc gia hiện nay đang áp dụng. TTĐT giúp tiết kiệm chi phí, giảm thời gian đi lại cho người thụ hưởng, hỗ trợ đúng đối tượng, kịp thời, tiện lợi và về lâu dài giúp họ tiếp cận với các dịch vụ tài chính tốt hơn, công bằng hơn, minh bạch hơn", ông Nguyễn Văn Hồi nhấn mạnh.
Ông Yasser El Gammal, Trưởng Ban An sinh xã hội và Việc làm khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết: Hiện nay rất nhiều quốc gia đã thực hiện chi trả điện tử, đặc biệt trong thời điểm dịch COVID-19 bùng phát, việc TTĐT, không dùng tiền mặt càng được đẩy mạnh hơn.
Tại Việt Nam, về hành lang pháp lý, theo đại diện Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), Việt Nam đang triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông để thanh toán cho các dịch vụ có giá trị nhỏ (mobile money); đã có hướng dẫn mở tài khoản thanh toán, phát hành thẻ bằng phương thức điện tử eKYC (Thông tư 16/2020/TT-NHNN, Thông tư 17/2021/TT-NHNN); có các tiêu chuẩn về thanh toán QR code, tiêu chuẩn thẻ chip và đang hoàn thiện dự thảo Nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt, dự thảo Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với hoạt động fintech.
Hiện nay cả nước có khoảng 20,5 nghìn cây ATM, 48 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, 80 ngân hàng đã triển khai Internet banking, 50 ngân hàng triển khai mobile banking, 3 doanh nghiệp viễn thông triển khai mobile money, hơn 100.000 điểm thanh toán QR, khoảng 247 nghìn điểm thanh toán POS…
Tính đến tháng 3/2022, có hơn 1,1 triệu khách hàng sử dụng mobile money, trong đó hơn 60% là khách hàng ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. 4 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021, thanh toán Internet tăng 48,39% về số lượng và 32,76% về giá trị; thanh toán qua mobile tăng 97,65% về số lượng và 86,% về giá trị. Đây là những điều kiện thuận lợi để Việt Nam triển khai chi trả điện tử trong thực hiện chính sách trợ giúp xã hội.