Hiện Quy định số 214-QĐ/TW và Quy định số 89-QĐ/TW của Bộ Chính trị về tiêu chuẩn chung đối với chức danh thứ trưởng và các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp đều có yêu cầu cán bộ, công chức phải kinh qua và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp. Tuy nhiên, Bộ Chính trị chưa quy định cụ thể thời gian đảm nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp.
Hạn chế việc bổ nhiệm “thần tốc”
Dự thảo Nghị định điều chỉnh đối với công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước ở bộ, cơ quan ngang bộ; UBND cấp tỉnh và cấp huyện, bao gồm 11 nhóm chức vụ (từ thứ trưởng đến trưởng, phó phòng thuộc huyện).
Theo đó, có 19 chức danh, mỗi chức danh được thiết kế gồm 4 nhóm tiêu chuẩn về vị trí chức trách, năng lực, kinh nghiệm công tác, trình độ. Trong đó, về kinh nghiệm công tác, phải có thời gian tối thiểu là 3 năm đảm nhiệm và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý cấp dưới trực tiếp; đối với lãnh đạo cấp phòng thì phải có thời gian làm chuyên môn tối thiểu là 3 năm.
Việc bổ sung quy định này là phù hợp với Quy định số 89-QĐ/TW về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Quy định 214-QĐ/TW về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, đồng thời hạn chế việc bổ nhiệm “thần tốc” đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phải tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với ngành, lĩnh vực công tác. Về trình độ lý luận chính trị, đối với lãnh đạo cấp vụ thuộc bộ, cấp sở và vụ trưởng thuộc tổng cục, yêu cầu trình độ cao cấp; đối với lãnh đạo cấp vụ phó thuộc tổng cục, trưởng phòng, yêu cầu trình độ trung cấp; đối với lãnh đạo cấp phó phòng không quy định bắt buộc phải có trình độ lý luận chính trị để phù hợp với thực tế vì có nhiều trường hợp công chức được bổ nhiệm cấp phòng chưa phải là đảng viên hoặc theo Kết luận 202-KL/TW về thi tuyển lãnh đạo, quản lý cấp phòng cho phép trường hợp chưa phải là đảng viên được dự thi.
Không quy định cụ thể về trình độ tin học, ngoại ngữ
Về trình độ tin học, ngoại ngữ, Bộ Nội vụ đề nghị không quy định cụ thể mà thực hiện theo quy định riêng của từng bộ, ngành, địa phương. Trường hợp công chức công tác ở địa phương có trên 50% đồng bào dân tộc thiểu số thì cho phép sử dụng tiếng dân tộc thay thế cho tiêu chuẩn ngoại ngữ.
Bộ Nội vụ lý giải, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII có xác định mục tiêu: Đến năm 2030, đối với cán bộ cấp chiến lược từ 40 - 50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương từ 50 - 60% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương từ 25 - 35% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
Quyết định số 1659/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Đề án “Chương trình Quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019 - 2030” cũng đã phấn đấu đến hết năm 2025, có 50% cán bộ, công chức ở Trung ương (tập trung vào cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý từ cấp phòng và tương đương trở lên dưới 40 tuổi); 25% cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện ở địa phương (tập trung vào cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý từ cấp phòng và tương đương trở lên dưới 40 tuổi) đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên; 60% viên chức và 50% viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đạt trình độ ngoại ngữ bậc 4 trở lên…
Tuy nhiên, tại Quy định số 214-QĐ/TW và Quy định số 89-QĐ/TW của Bộ Chính trị chỉ yêu cầu trình độ tin học và ngoại ngữ cần thiết và phù hợp. Do vậy, để phù hợp với thực tiễn công tác cán bộ hiện nay, Bộ Nội vụ đề xuất không quy định cụ thể yêu cầu về trình độ tin học, ngoại ngữ tại dự thảo Nghị định này mà sẽ thực hiện theo quy định của từng bộ, ngành, địa phương (kể cả trường hợp quy định sử dụng tiếng dân tộc thay cho tiêu chuẩn ngoại ngữ) cho phù hợp. Việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp theo yêu cầu của Nghị quyết số 26-NQ/TW và Quyết định số 1659-QĐ/TTg sẽ được triển khai theo kế hoạch riêng.
Hiện nay, các cơ quan thuộc Chính phủ bao gồm đơn vị sự nghiệp công lập, và cơ quan quan thuộc Chính phủ không phải là đơn vị sự nghiệp công lập, do vậy, Bộ Nội vụ đề xuất chỉ quy định việc áp dụng tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan thuộc Chính phủ. Cụ thể, cấp phó của người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ, áp dụng tiêu chuẩn Phó Tổng cục trưởng thuộc bộ; người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu tổ chức thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, áp dụng tiêu chuẩn của Vụ trưởng, Phó vụ trưởng, Cục trưởng, Phó Cục trưởng và tương đương thuộc tổng cục; người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu phòng và tương đương , áp dụng tiêu chuẩn của trưởng phòng, phó trưởng phòng thuộc tổng cục; các chức vụ lãnh đạo, quản lý đặc thù trong cơ quan thuộc Chính phủ do cơ quan thuộc Chính phủ ban hành sau khi trao đổi thống nhất với Bộ Nội vụ.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ Nghị định này quy định tiêu chuẩn cụ thể của từng chức vụ lãnh đạo, quản lý, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, đặc điểm của từng bộ, ngành, địa phươnh trong các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp với đặc điểm, điều kiện, thực tiễn của bộ, ngành, địa phương. Trong thời hạn 2 năm đối với những người đã được bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành, nếu còn thiếu tiêu chuẩn về trình độ theo quy định tại Nghị định này phải bổ sung đủ, trong thời gian này vẫn được xem xét bổ nhiệm lại.