Nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của quy hoạch vùng Đông Nam Bộ, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu cần làm rõ căn cứ khoa học để xác định các địa phương thuộc phạm vi của vùng (sự tương đồng, bổ trợ lẫn nhau về kinh tế, xã hội, văn hóa, tự nhiên…); cơ sở phân chia thành các tiểu vùng; thế mạnh, sản phẩm riêng biệt; định hướng quy hoạch không gian đô thị, nông thôn… Quy hoạch phải giải quyết những bất cập, hạn chế đối với sự phát triển của toàn vùng và các địa phương; phân tích kỹ nguyên nhân khiến vùng Đông Nam Bộ phát triển chậm lại.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh, phát triển kinh tế, thương mại, văn hóa, du lịch… của vùng Đông Nam Bộ phải liên kết với các vùng, địa phương khác, từ đó hình thành hành lang phát triển; đô thị được kết nối bằng hệ thống hạ tầng giao thông, kỹ thuật đồng bộ, hiện đại.
Bên cạnh đó, Quy hoạch cần xác định những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế vùng Đông Nam Bộ, khai thác tối đa thế mạnh khác biệt. Cụ thể, lĩnh vực công nghiệp của vùng Đông Nam Bộ phải đi đầu trong đổi mới sáng tạo, kinh tế xanh, năng lượng xanh, công nghệ cốt lõi. Nông nghiệp hướng vào công nghệ cao, tạo ra không gian xanh, gắn với du lịch.
Trước yêu cầu nguồn nhân lực phải đi trước một bước mới có thể thu hút các dự án FDI công nghệ cao, kinh tế tri thức, Phó Thủ tướng cho rằng, vùng Đông Nam Bộ phải giữ vai trò tiên phong, dẫn dắt trong giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ… Những di sản văn hóa, khu bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học… phải được quy định chi tiết trong Quy hoạch, có định hướng khai thác, sử dụng bền vững để Đông Nam Bộ là một vùng xanh.
Về lộ trình triển khai, Phó Thủ tướng lưu ý, vùng Đông Nam Bộ sẽ là nơi thí điểm những cơ chế, chính sách đổi mới, tạo đột phá; đồng thời lựa chọn nhiệm vụ, dự án, công trình ưu tiên “đầu tư ra tấm, ra món” để phát huy tối đa lợi thế của vùng, mang lại lợi ích chung cho các địa phương.
Theo báo cáo tại phiên họp, cùng Đông Nam Bộ là đầu tàu kinh tế của cả nước, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, thu ngân sách nhà nước và giải quyết việc làm. Hệ thống khu, cụm công nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ phát triển bậc nhất cả nước (chiếm 30,6%) gắn với các hành lang kinh tế.
Đây là khu vực có tỷ lệ đô thị hóa đứng đầu cả nước (67,3%), được phân bố tương đối hợp lý, diện mạo ngày càng hiện đại với các trung tâm dịch vụ tài chính - ngân hàng, thương mại, logistics, trung tâm về đào tạo, y tế, khoa học công nghệ.
Tuy nhiên, vùng Đông Nam Bộ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế, tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại, chậm đổi mới mô hình tăng trưởng. Mạng lưới kết cấu hạ tầng cấp vùng, liên vùng chưa đáp ứng được yêu cầu. Các hành lang kinh tế, tiểu vùng động lực chưa rõ nét. Công nghiệp phát triển còn thiếu bền vững, giá trị gia tăng thấp, phân bổ chưa hợp lý, phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hạ tầng xã hội (trường học, bệnh viện, nhà ở) quá tải...
Phấn đấu trong giai đoạn 2021 - 2030, vùng Đông Nam Bộ có tốc độ tăng trưởng trung bình 8 - 9%/năm, thu nhập bình quân đầu người 14.500 - 15.800 USD/năm. Mô hình tăng trưởng của vùng ưu tiên các ngành công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao, trong đó, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm, động lực phát triển.
Vùng Đông Nam Bộ hướng tới trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, dịch vụ, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số của cả nước và khu vực Đông Nam Á. Không gian phát triển của vùng gắn với hệ thống kết cầu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; tập trung xây dựng các hành lang kinh tế, vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ, logistics kết nối với các vùng, địa phương lân cận và quốc tế; gắn kết giữa đất liền và không gian biển, quản lý và sử dụng hiệu quả không gian ngầm, không gian trên cao. Sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, khai thác hiệu quả tài nguyên số; chú trọng bảo vệ môi trường, rừng, tài nguyên biên, an ninh nguồn nước, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, hệ thống đô thị của vùng Đông Nam Bộ phát triển theo hướng thông minh, hiện đại, kết nối với các đô thị lớn trong khu vực và trên thế giới; dọc theo các đầu mối giao thông lớn, tại các vùng có địa hình cao; hạn chế mở rộng đô thị trên diện rộng, đặc biệt tại khu vực chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; hình thành vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ, logistics; chuỗi công nghiệp - đô thị; các tổ hợp công nghiệp - dịch vụ - đô thị. Khu vực nông thôn ưu tiên bố trí khu dân cư tập trung, hạn chế bám dọc theo các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, phù hợp với đặc điểm và hình thái phân bố tại vùng đô thị hóa, sản xuất xuất nông nghiệp hàng hóa, đồng bằng, ven biển, biên giới…
Tại phiên họp, các ủy viên phản biện cho rằng, cần mở rộng không gian phát triển vùng Đông Nam Bộ để giảm bớt áp lực khu vực trung tâm thông qua ưu tiên nguồn lực đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại (giao thông, logistics, năng lượng, cấp thoát nước, hạ tầng số...). Việc tháo gỡ các điểm nghẽn hạ tầng kỹ thuật, dịch chuyển các khu công nghiệp không chỉ dừng lại ở nội vùng mà cần tính đến các vùng, địa phương lân cận. Vùng Đông Nam Bộ tập trung phát triển ngành công nghiệp công nghệ cao, là trung tâm dịch vụ tài chính, logistics, thương mại, giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ… của cả nước.
Để triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch, lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phương là thành viên của Hội đồng kiến nghị, triển khai các dự án hạ tầng dùng chung, kết nối vùng, liên vùng; định hướng phát triển một số hành lang kinh tế; cơ chế tham vấn giữa các địa phương trong xây dựng kế hoạch đầu tư công để hiện thực hóa các định hướng liên kết, hợp tác; hình thành quỹ phát triển hạ tầng vùng…