Nằm ven bờ sông Đăk Bla thơ mộng, làng Kon Kơ Tu thuộc xã Đăk Rơ Wa của đồng bào dân tộc Ba Na được xem là làng cổ nhất trên địa bàn thành phố Kon Tum hiện nay. Đây được xem là điểm nhấn của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên với nét đặc biệt của Kon Kơ Tu là hàng chục nhà sàn, có kiến trúc đặc hữu của dân tộc Ba Na, vây quanh bên ngôi nhà Rông truyền thống. Cùng với đó là các phong tục, tập quán, những điệu múa, những tiếng cồng chiêng tạo nên không gian văn hóa truyền thống của người dân nơi đây.
Điểm nhấn không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, những tác động của “thế giới văn minh” nhưng làng Kon Kơ Tu vẫn giữ vững nét văn hóa của riêng mình. Người dân nơi đây hàng ngày lên rừng làm nương, săn con nai, con dúi, phụ nữ trong làng thì dệt vải, đan gùi. Làng vẫn tổ chức các lễ hội của riêng mình với những bài cồng chiêng, điệu múa xoang ở nhà Rông của làng. Hiện nay nhiều làng ở khu vực Tây Nguyên chịu sự tác động của phát triển kinh tế xã hội dần đánh mất đi nét văn hóa đặc sắc của dân tộc, kiến trúc làng của mình. Hiện hầu hết các làng đều có kiến trúc “làng dài”, các hộ dựng nhà chạy dọc theo đường quốc lộ, đường chính để thuận tiện trong giao dịch, buôn bán. Riêng làng Kon Kơ Tu vẫn ít nhiều giữ được kiến trúc “làng tròn” với mô hình các nhà đều xây dựng xung quanh nhà Rông chính của làng. Đây là kiến trúc cổ của các làng dân tộc bản địa trên địa bàn tỉnh Kon Tum mà rất ít làng còn giữ lại.
Đặc biệt, làng Kon Kơ Tu hiện vẫn còn trên 20 ngôi nhà sàn được dựng theo kiến trúc truyền thống về nhà ở của người Ba Na. Nhà sàn của đồng bào Ba Na có hình chữ nhật với chiều dài trung bình khoảng 10 m. Mỗi căn nhà gồm 12 cây cột được chia đều mỗi bên 6 cây để tạo nên sự vững chãi, cân bằng cho ngôi nhà. Người Ba Na thường dựng cột nhà sàn bằng gỗ cà chít, có nhà làm bằng gỗ hương, gỗ trắc…, rất bền và chắc. Trong những ngôi nhà dài, có ba đến bốn đời người Ba Na sinh sống với nhau. Đó là sự gắn kết cộng đồng dân tộc và là niềm tự hào của người Ba Na về những nét kiến trúc ấn tượng mà cũng là niềm từ hào về một dân tộc luôn mang đậm giá trị văn hóa truyền thống cộng đồng.
Già làng A Xép kể lại: Trước năm 1920, làng rất đông dân sống vui vẻ bên nhau nhưng rồi đã xảy ra một trận dịch bệnh đậu mùa, thấy người bị bệnh chết quá nhiều nên những người còn khỏe mạnh đã sợ hãi bỏ làng ra đi, sau một thời gian cơn đại dịch lắng xuống, những người sống sót tìm về làng cũ nhưng chỉ còn lại mấy gia đình nhỏ vẫn bám trụ. Thời gian dần trôi, nơi đây trở thành làng đông đúc với trên 100 hộ và khoảng 600 khẩu. Nhấp chút rượu, già A Xép lại trầm ngâm nhớ lại: Khi mới đến dựng làng, nơi đây còn hoang vắng, già làng chọn nơi dựng nhà Rông rồi dân làng mới dựng nhà ở xung quanh. Thời ấy, rừng còn nhiều gỗ quý, ai khỏe thì chặt mang về mà dựng nhà không như bây giờ đi khắp cánh rừng mà không thể kiếm được một cây gỗ để dựng nhà sàn mà có cây thì cán bộ cũng không cho chặt nữa rồi. Có lẽ vì quay trở lại làng cũ hay vì sự hoang vắng nên dân làng đặt tên cho làng là Kon Kơ Tu - có nghĩa là làng gốc, làng hoang.
Theo nghiên cứu, người Ba Na Kon Tum có vốn văn hóa dân gian cổ truyền khá đậm đà, ngoài cồng chiêng còn có nhiều loại nhạc cụ truyền thống độc đáo như đàn T’rưng, Ting glinh (đàn nước), Tingning (đàn quả bầu). Bên cạnh đó, người Ba Na còn có nhiều làn điệu dân ca giao duyên mượt mà đằm thắm cùng với nhiều kiểu hát kể phong phú như Hri ‘Nhoi (hát đồng dao), Hri Mơ’Mon, Hri HơNhoông, Hri Cheo, Hri Troôm… đặc biệt nhất là Hri Hơ’Mon (hát kể sử thi Ba Na)…
Vươn ra biển lớn
Chỉ cần tra Google, tên của làng Kon Kơ Tu hiện lên dày đặc không chỉ ở các trang Việt Nam, mà các trang mạng nước ngoài cũng nhắc đến tên làng như một điểm du lịch hấp dẫn.
Theo anh Huỳnh Đức Tiến, Giám đốc công ty TNHH một thành viên du lịch Kon Tum thì hầu hết khách du lịch đến với Kon Tum ngoài các điểm du lịch khá nổi tiếng như: Nhà thờ gỗ, tòa giám mục, Ngục Kon Tum, cụm cầu treo - nhà Rông Kon Klor… thì làng văn hóa cổ Ba Na ở Kon Tum cũng là lựa chọn số một của du khách, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài. Ngoài yếu tố văn hóa, đồng bào nơi đây rất hiếu khách, biết chiều lòng những vị khách khó tính.
Đến với làng Kon Kơ Tu cũng chính là đến với điểm nhấn của không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Nơi đây còn có các lễ hội truyền thống như: Mừng lúa mới, đâm trâu, Tết Ét đong…, diễn ra hàng năm. Bên cạnh đó là các trang phục truyền thống, các món ăn dân tộc đặc sắc như: Cơm lam, thịt gà nướng muối ớt, cá thác lác nấu chua, măng rừng xào…, và tất nhiên không thể thiếu ghè rượu cần bằng nếp than cay cay ngọt lịm. Tất cả mang dư âm, hương vị của người Ba Na rất phong phú mà cũng rất riêng biệt.
Ông A Tảo, thôn trưởng cho biết: Hiện nay dân làng thường xuyên đón các du khách đến thăm và chứng kiến sinh hoạt của người dân trong làng, cũng có nhiều người xin ở lại, được ngủ tại nhà Rông để tìm hiểu văn hóa của người Ba Na. Những năm gần đây, được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, làng đã có nhiều công trình giao thông, thủy lợi, hệ thống trường học, các dự án vay vốn xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt, làng đã được UBND tỉnh Kon Tum quy hoạch thành địa chỉ du lịch sinh thái, du lịch văn hóa trên địa bàn thành phố, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no hơn. Ngoài việc hàng ngày lên nương làm rẫy, người dân nơi đây còn chú trọng làm nghề truyền thống dệt các mặt hàng thổ cẩm để phục vụ cho mình và du khách, thanh niên thì được đào tạo làm hướng dẫn viên cho khách có nhu cầu tham quan, tìm hiểu. Bên cạnh đó, dịch vụ nghỉ ngơi, ăn uống cũng góp phần nâng cao nguồn thu nhập cho người dân.
Bà Mari Helene Hauze - du khách Pháp cho biết: Tôi thật sự rất ấn tượng trước vẻ đẹp yên bình của núi rừng và sự thân thiện, hiếu khách của người dân Kon Kơ Tu nói riêng và người dân Kon Tum nói chung. Tôi nghĩ để du lịch Kon Tum phát triển thì cần phải có những chính sách gìn giữ, bảo tồn và khai thác thế mạnh qua việc bảo tồn, gìn giữ những nét đẹp văn hóa, những phong tục, tập quán của bà con; phát triển du lịch sinh thái để du khách được khám phá, trải nghiệm vẻ đẹp mộc mạc và bình dị của núi rừng.
Còn chị Nguyễn Như Quỳnh đến từ Thành phố Hồ Chí Minh thì khẳng định: Người dân nơi đây rất hiếu khách và họ có đội cồng chiêng đánh rất hay, đặc biệt trong làng còn có một số già làng còn nhớ và kể lại được nhiều truyện cổ. Ngoài ra, tôi đến đây còn được tham gia thử dệt thổ cẩm, tập đan gùi giống các cô gái Ba Na.
Du khách có thể đến ngủ dưới mái nhà Rông, được nghe và hòa mình vào tiếng cồng, tiếng chiêng, cùng múa xoang xung quanh ánh lửa bập bùng. Du khách có thể được chứng kiến hoặc tham gia dệt vải, đan gùi được đi bằng thuyền độc mộc xuôi theo dòng Đăk Bla thơ mộng uốn quanh dưới dãy núi Kong Muk. Đây chính là điểm mạnh của làng du lịch Kon Kơ Tu mà rất nhiều người từng đến nơi đây nhận xét.
Đến với Tây Nguyên, hiện còn rất nhiều làng mà du khách có thể tìm được những nét đẹp về văn hóa của người dân tộc bản xứ nhưng chỉ ở ngôi làng này với những nét cổ kính trăm năm còn sót lại, xen lẫn một chút hiện đại của cuộc sống. Nơi đây, người dân làng Kon Kơ Tu vẫn sống, hiền hòa và hàng tháng đón tiếp hàng trăm du khách nước ngoài. Mỗi khi họ đến đều không thể không mua những sản vật của người dân trong làng làm kỉ niệm: Những chiếc gùi xinh xinh, vật mô phỏng ngôi nhà rông, chiếc nỏ… Phụ nữ thì chọn mua cho mình những bộ quần áo, giỏ xách…, được dệt bằng chất liệu thổ cẩm.
Để Kon Kơ Tu phát triển
Ông Phan Thanh Nam Bí thư - Chủ tịch xã Đăk Rơ Wa cho biết: Làng cổ Kon Kơ Tu được xem là làng của người Ba Na còn giữ lại nhiều nét văn hóa đặc sắc. Tuy nhiên nét văn hóa truyền thống ấy đang đứng trước nguy cơ của cuộc sống hiện đại khi mà nền kinh tế thị trường đang dần làm mất đi những ngôi nhà sàn ít ỏi còn sót lại. Người nghèo thì chỉ đủ tiền (cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước) xây các ngôi nhà tình nghĩa, những ngôi nhà sàn bằng gỗ quý hiếm đang bị nhiều “đại gia” dòm ngó. Bên cạnh đó, nghề truyền thống dệt vải, đan gùi đang có xu hướng thương mại hóa và du lịch hóa khi người dân nơi đây chỉ làm ra các sản phẩm đơn điệu và chạy theo số lượng. Hàng ngày, khách du lịch, đặc biệt là người nước ngoài tới đây càng nhiều đang ngày càng làm ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống, sinh hoạt của bà con. Bên cạnh đó, nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên rừng bao bọc làng ngày càng cao trong khi người dân vẫn còn tập tục đốt rừng làm nương rẫy.
Để bảo tồn và phát huy lợi thế, thế mạnh về văn hóa, du lịch của làng, tỉnh Kon Tum cũng đã tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân nâng cao ý thức bảo vệ chính văn hóa truyền thống của mình. Tổ chức hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho dân làng phục hồi các lễ hội truyền thống như: Mừng lúa mới, lễ tục mừng sinh (cho đứa trẻ chào đời), lễ mừng nhà Rông, lễ bỏ mả… Bên cạnh đó, chính quyền xã cũng đã tổ chức các buổi tuyên truyền vận động người dân nâng cao ý thức quản lý và bảo vệ rừng, lồng ghép dự án “hành tinh mới” trồng 5 ha rừng tại đầu thượng nguồn nước tự chảy. Duy trì và phát huy ngành nghề dệt truyền thống thông qua việc thành lập tổ dệt, hỗ trợ vốn, xây nhà sản xuất và trưng bày sản phẩm truyền thống trên cơ sở dự án Glmi của Nhật Bản… Ngoài ra, làng cũng được UBND tỉnh quy hoạch thành địa điểm du lịch sinh thái và được nhiều công ty du lịch trên địa bàn đưa vào trong danh sách các điểm đến thú vị ở các tour du lịch của mình.
Bài và ảnh:Sỹ Thắng