Không phải ngẫu nhiên mà câu hát mở đầu cho hai ca khúc "Làng tôi" nổi tiếng đều có hình ảnh cây tre thân thuộc. Với Văn Cao là "Làng tôi xanh bóng tre, từng tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung" còn Hồ Bắc thì lại là "Làng tôi xanh luỹ tre mờ xa, tình quê yêu thương những nếp nhà"...
Thật thanh bình, đẹp đẽ biết bao nhiêu! Từ thuở thiếu thời tôi đã thuộc và hát vang hai ca khúc đó cùng với những áng văn mượt mà, đầy chất thơ trong tùy bút "Cây tre Việt Nam" của Thép Mới", trong bài thơ "Tre Việt Nam" của Nguyễn Duy.
Từ trong văn thơ, nhạc họa, từ thực tiễn cuộc sống, cây tre đã đi vào hồn tôi, một đứa trẻ chăn trâu sau lũy tre làng cho tới bây giờ trở thành người nửa quê, nửa phố. Còn đó tiếng mẹ, tiếng bà ru tôi bên chiếc nôi tre, võng tre kẽo kẹt giữa trưa hè. Quên sao được tuổi thơ tôi vắt vẻo trên lưng trâu, bay bổng tiếng sáo tre, sáo trúc, rượt đuổi cánh diều lúc hoàng hôn. Đêm về, khi "trăng lên lùa cành tre, gió thổi tiếng ru hời"... là lúc cha tôi ngồi trên chiếc chõng tre rít điếu thuốc lào khoan khoái thả khói lên trời, ngắm trăng, ngắm sao mà trù tính việc cày bừa cấy hái. Lại nữa, cái không khí háo hức đón chờ Tết đến bằng việc tối tối cha ngồi chẻ lạt, mẹ ngồi nối lạt bánh chưng đọc câu ca dao "Lạt này gói bánh chưng xanh/ Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng" thì chẳng bao giờ tôi quên được. Cái lạt tre ấy đã buộc chặt ký ức của tôi với làng.
Nhưng giờ đây về làng chẳng thấy bóng tre đâu! Nhà nọ nối tiếp nhà kia, mái bằng, tháp nhọn đủ kiểu. Thả bước trên con đường bê tông của làng, thấy làng quê thay đổi nhiều quá, trong sự mừng vui tôi vẫn thấy một nỗi buồn khó gọi thành tên. Tôi cảm thấy như thiêu thiếu một cái gì đó. Chẳng còn bờ tre, rặng chuối đâu nữa, thay vào đó là những bức tường xây kín cổng. Tre bị chặt phá gần hết để lấy đất xây cất nhà lầu, xây tường rào cắm những mảnh chai sắc nhọn. Đâu rồi tiếng kẽo kẹt của tre mỗi khi những cơn gió thổi tới. Cái chõng tre lâu năm lên nước nâu bóng loáng cũng không còn, thay vào đó là ghế gấp, giường gập các kiểu, các hãng. Cái cối xay tre giờ cũng đã thành cổ tích. Cầm sợi dây nilon để buộc các thứ mà tôi nhớ nao lòng cái lạt tre vàng óng trên gác bếp ngày ấy, nhớ cồn cào cái lạt dang gói bánh chưng xanh của mẹ ngày xưa. Mọi thứ tưởng đủ đầy sao vẫn cứ chênh chao?
Làng tôi giờ vắng những bóng tre. Cây cối nhiều đấy, vườn tược có vẻ quy củ, gọn gàng đấy sao tôi vẫn cứ thấy nhớ cây tre. Những hôm trời nắng oi, làng tôi như một cục xi măng khổng lồ với cái nóng hầm hập. Lại khi bão lớn, gió cứ thông thốc thổi, hoành hành cả phố, cả làng. Những ngày đó, những người tuổi tôi bỗng nhớ lũy tre xanh hơn bao giờ hết. Giá còn những lũy tre che chở bao bọc xóm làng thì đâu đến nỗi oi bức, ngột ngạt hay nghiêng ngả trong gió bão như thế! Làng lên phố đồng nghĩa với sự thưa vắng của bóng tre xanh. Trong chói lóa của những ngôi nhà khung nhôm kính, vẫn biết "sẽ quen dần với xi măng và cốt sắt" (Thép Mới), quy luật sẽ thế, phải thế song tôi cứ gọi hoài đâu rồi bóng tre?
X.T