Gương mặt ngăm đen, đôi mắt sáng, giọng nói nhẹ nhàng, truyền cảm và tinh tế. Cách nói chuyện như "thôi miên" người nghe và trí nhớ chẳng khác nào những thước phim tư liệu lịch sử. Tiếp xúc với ông, ít ai nghĩ rằng vị Đạo trưởng “Thiên Vương tinh” của tòa sứ Cao đài Đồng Tháp ở tuổi “cửu thập” lại từng là một chiến sĩ điệp báo của lưới U4 thuộc Cụm VĐ2. Ông là Đinh Văn Đệ (Ba Đệ) - nguyên là Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ viện Sài Gòn. Người được phong cấp hàm thượng úy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba và được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất.
… Cũng giống như nhiều gia đình khác ở miền Nam, gia đình Ba Đệ cũng có hoàn cảnh khá đặc biệt: Mấy anh em, người đi theo cách mạng, kẻ phục vụ quốc gia. Năm 1952, Đinh Văn Đệ bị động viên vào Trường sĩ quan trù bị Thủ Đức. Mãn khóa, ông đứng thứ 6 nên được về Bộ Tham mưu Đệ nhất Quân khu (đứng ở tốp 5 thì được ưu tiên về Bộ Tổng tham mưu, từ 6 đến 10 thì về Đệ nhất Quân khu). Viên sĩ quan trẻ, thông minh, nhanh nhẹn Đinh Văn Đệ được tướng Tỵ chọn làm trợ lý Tổng tham mưu trưởng. Phải cái tội bướng bỉnh, hay cãi cấp trên nên Ba Đệ đã nhiều phen làm phật lòng các sếp lớn. Mặc dầu vậy, khi Ngô Đình Diệm lên nắm quyền, Ba Đệ vẫn được phong trung tá và được cất nhắc lên làm Chánh văn phòng Tổng tham mưu trưởng. Sau đó, khi được Diệm - Nhu mời vào Đảng Cần lao nhân vị thì ông từ chối khéo, do đó mà bị Diệm tìm mọi cách trù dập. Sau vụ đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, cả hai thầy trò Tỵ - Đệ đều bị bắt vì can tội "tham gia đảo chính". Nhờ mối quan hệ thân thiết của ông bố vợ với Phan Khắc Sửu nên Ba Đệ được bảo lãnh và sau đó được vào học tại Trường Đại học quân sự Đà Lạt. Ngày ra trường, đích thân Tổng thống Ngô Đình Diệm lên trao bằng tốt nghiệp cho các học viên. Diệm không ngờ vị thủ khoa lại chính là kẻ đối lập Đinh Văn Đệ. Quá tức giận, Diệm chỉ trao bằng mà không thèm bắt tay thủ khoa như thông lệ.
Tháng 11/1963 nổ ra cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Đinh Văn Đệ được Dương Văn Minh mời ra làm Thị trưởng Đà Lạt kiêm Tỉnh trưởng Tuyên Đức. Kể từ sau cuộc đảo chính đó, Ba Đệ bắt đầu được Mỹ để ý. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm mà trong con người ông bắt đầu có sự chuyển biến tư tưởng mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh giằng xé giữa một bên là lý tưởng quốc gia và bên kia là những người anh em ruột thịt trong hàng ngũ cách mạng (ông có người em trai là Đinh Văn Huệ - sĩ quan quân báo của ta, sau này là Đại tá - Cụm trưởng VĐ2).
Ba Đệ bắt đầu sống giữ mình hơn và luôn bày tỏ thái độ phê phán coi thường nhóm tướng lĩnh hiếu chiến ham chơi; rồi tham gia lật tẩy các đường dây làm ăn phi pháp của họ… Chính vì vậy mà Nguyễn Khánh khi lên nắm quyền đã điều Ba Đệ về Bình Thuận - một địa bàn "khó chơi". Lúc bấy giờ, Đinh Văn Đệ đã từng đề nghị cho được ra Côn Sơn thì Nguyễn Khánh trả lời "con người như ông ra Côn Sơn để rồi bị cộng sản mua chuộc".
Đầu năm 1967, Đinh Văn Đệ ứng cử vào Hạ viện và mặc dầu bị Nguyễn Văn Thiệu tìm mọi cách đánh trượt, nhưng được sự hậu thuẫn của đông đảo cử tri, ông đã đắc cử ở Đà Lạt.
Cuối năm đó, đang là dân biểu Hạ nghị viện, Phó trưởng khối đối lập, Phó Chủ tịch Hạ viện Sài Gòn thì cuộc đời Đinh Văn Đệ trải qua một bước ngoặt lớn. Thông qua sự giác ngộ và bảo lãnh của ông chú, Ba Đệ được em dâu (vợ Đinh Văn Huệ) móc nối và trở thành cơ sở nội tuyến của mạng lưới tình báo thuộc Đoàn 22-Bộ chỉ huy Miền. Ông được đặc cách phong hàm thượng úy Quân giải phóng miền Nam. Ngày đón nhận quyết định cùng với quà và tháng lương thượng úy đầu tiên do cô giao liên chuyển từ ngoài R vào, ông rất cảm động không cầm nổi nước mắt. Ông chỉ nhận quà mà từ chối nhận lương, từ chối với lý do có thể tự lo được sinh hoạt phí cho mình. Hồi đó, tổ chức yêu cầu Ba Đệ phải bằng mọi cách nắm cho được chức Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng của Hạ viện. Đây là một nhiệm vụ nặng nề bởi Ba Đệ vốn là người của phe đối lập, là "cái gai" trong con mắt của cả hai đời Tổng thống Diệm và Thiệu. Để đạt được mục đích "trèo cao, chui sâu", lấy được lòng cả quan thầy Mỹ lẫn bộ sậu Thiệu, Ba Đệ buộc phải thoát ly khỏi phe đối lập và bề ngoài tỏ ra là một Ba Đệ hoàn toàn khác, hăng hái chống Cộng hơn. Thế rồi từ chỗ đối lập với Thiệu, Ba Đệ ngả dần sang phái thân chính quyền. Liên tục trong hai khóa Quốc hội trên danh nghĩa Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ viện Sài Gòn, Đinh Văn Đệ đã cung cấp cho mạng lưới cách mạng nhiều tin tức quan trọng.
Tháng 1/1975, sau khi tỉnh Phước Long hoàn toàn giải phóng, đồng chí Phạm Hùng có chỉ thị yêu cầu Ba Đệ cho biết phản ứng của địch: Liệu chúng có dám tái chiếm Phước Long hay không? Qua mối thân thiện với Tổng trưởng Quốc phòng, Ba Đệ đã được Cao Văn Viên cấp cho một giấy thông hành đặc biệt. Nhờ có giấy này mà Ba Đệ ra vào Bộ Tổng tham mưu một cách khá dễ dàng để tiếp cận với Trưởng phòng hành quân - bạn đồng niên hồi ở Thủ Đức. Nhờ có thông tin “địch đã bỏ Phước Long” do Ba Đệ chuyển ra mà ta đã tập trung hầu hết lực lượng cho trận Buôn Ma Thuột. Hơn thế, Ba Đệ còn cho biết địch bỏ Phước Long nhưng sẽ cho không quân dội bom quần nát Lộc Ninh. Đúng là vài ngày sau đó địch làm thật nhưng ta đã có phương án đối phó nên hạn chế tối đa thương vong.
Hồi đó, trên tờ Điện Tín xuất hiện một bức tranh đả kích của họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) gây xôn xao dư luận. Đó là hình ảnh một con cóc nhảy từ khối đối lập qua Dinh Độc Lập, bên dưới chú thích 3 chữ: Đinh Văn Đệ. Cay đấy, nghiệt ngã đấy nhưng Ba Đệ lại cảm thấy vui. Vui vì nhờ những "chiêu độc" như vậy mà Ba Đệ đã củng cố được vị thế của mình để rồi năm 1974 đắc cử chức Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ viện Sài Gòn, đúng như yêu cầu của tổ chức.
Trước khi chiến dịch Tây Nguyên mở màn, để trả lời câu hỏi của cấp trên: Địch có biết chỗ đứng chân của Trung ương Cục hay việc di chuyển quân của mình không - Ba Đệ đã đi một nước cờ hiểm. Ông yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cấp cho ông ba chiếc trực thăng: 1 cho ông và đoàn của Hạ viện, 1 cho Trung tướng Tôn Thất Đính - Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Thượng viện và 1 cho Trung tướng Đôn - Phó Thủ tướng lấy lý do đi úylạo binh sĩ trong bối cảnh “nước sôi lửa bỏng”. Đến đâu lên dây cót tinh thần qua loa cho binh lính, Ba Đệ cũng hỏi cho bằng được “Có biết Trung ương Cục Việt cộng nằm ở đâu? Chủ lực Việt cộng di chuyển ra sao?…”. Những thông tin đó đã được Ba Đệ tổng hợp và cập nhật rất nhanh rồi chuyển ngay cho lưới để thông báo ra ngoài cứ.
Trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, từ khi còn là Thị trưởng Đà Lạt, Tỉnh trưởng Tuyên Đức, Tỉnh trưởng Bình Thuận… cho đến khi về Sài Gòn, Đinh Văn Đệ đã có không ít lần tiếp xúc với các phái đoàn Mỹ; tham gia không ít chuyến xuất ngoại quan trọng, nhưng với ông, có lẽ chuyến công du sang Mỹ tháng 3/1975 là đáng nhớ nhất. Sứ mệnh lịch sử đặt lên vai con người nhỏ bé này trọng trách vô cùng to lớn. Chính quyền Thiệu yêu cầu vị Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng này phải thuyết phục sao cho Quốc hội Hoa Kỳ phải mở hầu bao, chìa tay ra cứu vớt kẻ đang hấp hối; phải làm cho Quốc hội Hoa Kỳ thấy được, nếu không viện trợ ngay cho Sài Gòn thì Sài Gòn sẽ sụp đổ; công của Mỹ bấy lâu nay sẽ thành "công cốc". Trong khi đó thì theo yêu cầu của tổ chức, Ba Đệ phải tận dụng cơ hội hiếm hoi này để làm cho Quốc hội Hoa Kỳ thấy được sự vô vọng của mọi cố gắng; ông muốn gửi đến Quốc hội Hoa Kỳ một thông điệp "Đừng tiếp tục ném tiền qua cửa sổ vô ích".
Ngày 13/3/1975, hai ngày sau khi Buôn Ma Thuột - "thủ phủ" của Tây Nguyên - rơi vào tay quân giải phóng, phái đoàn cầu viện của Đinh Văn Đệ đáng lẽ ra theo kế hoạch đã phải lên đường từ ngày 6/3 nhưng vì xảy ra "sự kiện Buôn Ma Thuột" nên mới phải lùi lại. Trước ngày khởi hành, mặc dầu không phải là trưởng đoàn nhưng Đinh Văn Đệ vẫn cố gắng nghe và tổng hợp thông tin; đồng thời nắm chắc tình hình các chiến trường và tình hình chính trường Sài Gòn. Không là trưởng đoàn nhưng với tư cách Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng, Đinh Văn Đệ được trình bày trước Quốc hội Hoa Kỳ. Tại đây, ông phải hoàn thành hai vai diễn. Một theo kịch bản của Thiệu, một theo yêu cầu của cách mạng. Trên diễn đàn Quốc hội Hoa Kỳ, Ba Đệ đã cố phác thảo một bức tranh đen tối về tình hình chiến trường; về sự lục đục, rối ren của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu; về sự sa sút một cách toàn diện của Quân lực Việt Nam cộng hòa…
Để rồi, trên cơ sở những thông tin đó cùng với những tin tức không mấy tốt lành từ chiến trường Nam Việt Nam dồn dập dội về, đa số các nghị sĩ và kể cả Tổng thống Pho đều cảm nhận được điều không thể cứu vãn nổi Sài Gòn, cho dù có tiếp tục đổ thêm vào đây hàng đống của. Một số chủ tịch các Ủy ban của Quốc hội Hoa Kỳ thậm chí bỏ qua cả phép tắc ngoại giao, không dám nhận quà của phái đoàn Nghị viện Việt Nam cộng hòa. Tuy nhiên, để giữ thể diện cho Sài Gòn, hơn nữa dẫu sao thì Việt Nam cộng hòa cũng là đứa con do Mỹ rứt ruột đẻ ra và chăm bẵm nên Tổng thống Pho đã phải an ủi: “Tôi đã hiểu. Thôi các anh cứ về, tôi sẽ cho người sang xem xét tình hình ngay, rồi quyết định”.
Ngày 6/4/1975, phái đoàn của Đinh Văn Đệ kết thúc chuyến công du cầu viện về nước mà không đạt được kết quả như mong đợi. Hầu hết các thành viên trong đoàn đều đã cảm nhận được sự buông xuôi của Mỹ qua thái độ lạnh nhạt, thờ ơ của Quốc hội Hoa Kỳ.
Ai nấy đều cảm thấy tâm trạng bị đè nặng và như có lửa đốt vì mục đích của chuyến công du không được toại nguyện. Duy chỉ có vị Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Đinh Văn Đệ là như mở cờ trong bụng vì ông đã làm được điều lớn hơn cả mong đợi.
Đúng như Tổng thống Pho đã hứa, từ ngày 22/3 đến ngày 2/4/1975, một phái đoàn gồm 8 nghị sĩ dân biểu Mỹ đã tới Sài Gòn nhưng kết cục diễn ra không đúng như cam kết trước đó. Mất khoản viện trợ 300 triệu USD mà Đại sứ Martin đã hứa. Ánh sáng le lói cuối đường hầm vừa chớm loé lên qua lời hứa của Tổng thống Pho đã bị phái đoàn nghị sĩ Mỹ dội cho gáo nước tắt ngấm. Vốn là một kẻ bảo thủ, nhưng sau khi bị Mỹ bỏ rơi, Nguyễn Văn Thiệu và nội các của y dường như đã linh cảm được “điềm gở” báo trước ngày tận thế của chế độ Việt Nam cộng hòa.
Sau ngày miền Nam giải phóng, Ba Đệ có tên trong danh sách phải đi học tập cải tạo. Song nhờ có người bảo lãnh nên được tại ngoại. Tuy nhiên, lúc bấy giờ người ta đối xử với ông như đối với một công chức cao cấp của chế độ Việt Nam cộng hòa. Nhiều lúc buồn tủi và ấm ức trong lòng mà không biết giãi bày cùng ai. Kể cả mấy năm sau đó Ba Đệ được “minh oan” và được phiên sang hưởng lương cán sự 6 cũng không làm ông vui hơn. Ba Đệ không mặn mà gì cái chức “cán sự 6” khi mà xung quanh ông còn nhiều ánh mắt nghi kỵ. Buồn vì sự đời trớ trêu, Ba Đệ quyết định xuất gia. 16 năm phụng sự nghiệp đạo nơi Thánh thất, mọi kỷ niệm buồn vui của người chiến sĩ tình báo, ông đều chôn chặt đáy lòng.
Trần Ngọc Long- Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam