Với ngành chè của Lai Châu, nhắc đến tên chị Phạm Thị Nụ dường như ai cũng biết. Nghị lực vượt khó vươn lên làm giàu từ cây chè trên quê hương thứ hai của người con gái vùng đất “chị Hai năm tấn” đã làm cảm phục những con người nơi vùng đất gian khó này. Nhiều năm vất vả, trăn trở với cây chè, giờ đây chị Nụ đã giúp nhiều bà con dân tộc có công ăn, việc làm ổn định, có điều kiện vươn lên thoát khỏi cái đói, cái nghèo.
Ảnh có tính chất minh họa. Nguồn: Internet. |
Trò chuyện với chúng tôi ở phân xưởng rộng 5.000 m2 tại xã vùng cao Sùng Phài (Tam Đường), những ký ức về ngày đầu lập nghiệp của chị vẫn vẹn nguyên trong tâm trí. Theo lời kể, chị Nụ lớn lên ở miền quê Quỳnh Phụ (Thái Bình) nghèo khó, gia cảnh lại đông anh em, nên năm 1982, chị quyết định lên Lai Châu lập nghiệp với hy vọng làm ăn được ở miền đất mới. Có chút kinh nghiệm về thu hái búp chè, chị đã được nhận vào làm tại một công ty chè.
Đến năm 2002, ngành chè khủng hoảng, công việc dường như quá bấp bênh, do vậy chị đã quyết định xin nghỉ làm để tìm cho mình hướng đi khác. Bộc bạch những khó khăn lúc bấy giờ, chị Nụ cho biết: “Gắn bó với cây chè thời gian lâu như vậy, nên giờ nghĩ làm việc khác là rất khó. Quyết tâm theo đuổi đến cùng ngành chè luôn trong tâm thức của tôi”.
Với những tâm huyết đó, năm 2007, chị quyết định thành lập Công ty chè Shan Trúc Thanh của riêng mình. Để có tiền, chị đã dốc hết vốn liếng, đi vay ngân hàng, thậm chí bán cả nhà cửa để mua xưởng và đầu tư máy móc khiến “đức lang quân” của chị phải sững sờ. Quyết định bán nhà lấy vốn đầu tư khiến cuộc sống gia đình chị phải lao đao. Con thì nhỏ, phải chắt chiu từng bữa ăn, bộn bề khó khăn là vậy, nhưng chị Nụ không nản chí. Có xưởng, có máy móc, chị chủ động tìm nguồn tiêu thụ bằng cách lặn lội “gõ cửa” từng đầu mối. “Là nông dân, có mấy ai dám bán nhà, bán đất để lấy vốn đánh cược cho một ngành nghề đang trong giai đoạn khủng hoảng. May mắn thay tôi đã không thất bại” – chị Nụ khiêm tốn.
Nói đến kinh nghiệm trồng, thu hoạch và sản xuất chè, ánh mắt chị vui hẳn lên, tất cả dường như trẻ lại đối với người phụ nữ đã đi qua cái tuổi 50 này. Vì người dân xung quanh xưởng chủ yếu là người dân tộc, tập quán của họ là phó mặc cây chè cho thiên nhiên mà không chăm bón, nên chất lượng búp chè xuống thấp. Thấy vậy, chị đã cho nhiều hộ dân vay phân bón, cũng như hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc cây chè. Chị còn mạnh dạn đầu tư thuê máy ủi san, gạt mặt bằng để mở rộng và kéo dài đường giao thông quanh xưởng, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con đi lại trồng và chăm sóc cây chè được tốt hơn. Do có uy tín, bà con luôn tìm đến xưởng của chị để bán chè búp tươi. Vào vụ, công ty của chị có thể thu mua 8 - 11 tấn chè búp tươi/ngày.
Với bà con nơi đây, chị là tấm gương điển hình về người nông dân biết tìm tòi, sáng tạo, biết chấp nhận thử thách để có được thành công. Bên cạnh việc ký hợp đồng trồng và bán chè với hơn 100 hộ nông dân xung quanh, với công việc ở nhà máy, chị đã giải quyết công ăn việc làm cho gần 20 lao động trực tiếp, mức thu nhập 4,5 triệu đồng/người/tháng. Em Giàng A Lừ, 18 tuổi, dân tộc Mông ở bản Tả Lèng, xã Tả Lèng, huyện Tam Đường, rất vui mừng được nhận vào làm ở nhà máy chè của chị. Có chỗ ngủ nghỉ, có công việc ổn định, lại không phải lo chuyện ăn uống, em đã gắn bó với nhà máy gần 3 năm nay. Em Lừ tâm sự: “Học xong, em không có việc làm nên cô Nụ đã nhận vào đây. Mỗi tháng em cũng có tiền gửi về phụ giúp bố mẹ, cuộc sống gia đình đã phần nào bớt khó khăn hơn trước rồi”.
Với ánh mắt sáng, khuôn mặt luôn nở nụ cười tươi rói, người phụ nữ đầy bản lĩnh này cho biết, không phải là chỉ làm giàu cho riêng bản thân, điều quan trọng nhất là thương hiệu chè Lai Châu tìm được chỗ đứng trên thị trường. Sản phẩm chè của chị đã chiếm lĩnh được sự tin tưởng về chất lượng của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài như Pakistan, Đài Loan (Trung Quốc)… Đó là tâm niệm với riêng ngành chè. Còn với xã hội, Công ty của chị Nụ luôn là đơn vị đi đầu trong các phong trào quyên góp, ủng hộ Quỹ vì người nghèo, Quỹ trẻ thơ... Với những thành tích trong sản xuất và việc làm vì cộng đồng, chị Nụ tự hào được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2010 và của Trung ương Hội Nông dân năm 2012.
Chia tay người phụ nữ dáng hình nhỏ nhắn mà đầy nghị lực khi trời đã xế chiều, chị Nụ cho biết thêm: “Tới đây, tôi sẽ đầu tư thêm phân bón, thuốc phòng trừ sâu bệnh cho người dân trồng chè, nhất là đối với bà con dân tộc thiểu số để đảm bảo chất lượng chè búp tươi. Chắc chắn tôi sẽ làm mọi cách để góp phần giữ vững chất lượng, uy tín thương hiệu chè Việt Nam trên thị trường quốc tế”.
TTXVN/Tin Tức