“Cứ độ hai mươi tháng Chạp ta, chưa đến Tết ông Công ông Táo, mậu dịch đã dựng rạp bán lá dong, và các cửa hàng đã căng băng đỏ dán chữ vàng quầy hàng bán Tết, thế là Tết đã về”- nhà văn Ma Văn Kháng nhớ lại. Thời ấy, Tết là những ngày thật đặc biệt, là một khoảng thời gian tách ra khỏi chuỗi ngày bình thường đều đều. Tết đến trong tâm tư rộn ràng của mỗi người, trong niềm vui sum họp, trong những cảm xúc thiêng liêng, trong phấp phỏng hy vọng, trong khắc khoải chờ mong một cái gì đó thật mơ hồ và vô cùng đẹp đẽ.
Suốt thời gian 24 năm công tác tại Lào Cai, mỗi năm, trừ những giai đoạn chiến tranh ác liệt, còn thì những ngày Tết, nhà văn Ma Văn Kháng đều cố gắng tranh thủ về xuôi sum họp cùng vợ con. Từ Lào Cai về Hà Nội hơn 300 cây số, chỉ có mỗi con đường sắt được khôi phục sau hòa bình lập lại 1954. Kỷ niệm nhớ nhất của ông về Tết là những ngày đêm chen chúc và hăm hở trên các toa tàu đông ken, đầy than bụi, đường tàu luôn bị ngắt quãng vì máy bay Mỹ đánh phá. Rồi sau đó là những đêm bịn rịn chia tay vợ con, lên tàu trở về nơi công tác. Lên đường, nhớ thương hòa trộn với khát vọng mãnh liệt giục giã ở nơi chân trời xa, cái Tết như là một khoảng lặng, một dấu mốc, một cuộc lên đường mới.
Nhà văn Ma Văn Kháng có những ký ức khó quên về miền núi, cụ thể là mảnh đất Lào Cai. Nói đến Lào Cai, nhà văn Ma Văn Kháng kể lại chuyến lên đường định mệnh đã gắn bó ông với mảnh đất miền núi đã mang lại cho ông một cái tên, một sự nghiệp văn học lẫy lừng: Hôm ấy đã là hai mươi chín tháng Chạp, sắp đến Tết Ất Mùi. Xung quanh đã rộn ràng không khí đón xuân. Vậy mà cả đoàn không một ai nghĩ đến cái Tết và gia đình. Chỉ một hăm hở hướng về cái đích phải tới, nơi lập nghiệp, nơi thử thách ý chí trai trẻ. Ngày đầu tiên đi bộ, chúng tôi tới Báo Đáp. Nắng hanh vàng rười rượi trên các khu đồng đã gặt. Ngày thứ hai chúng tôi qua một chặng đường nữa, tới Trái Hút, bắt đầu xâm nhập vào miền rừng Tây Bắc. Núi non xanh đằm ngờm ngợp, mịt mùng. Tìm một nhà dân bên đường, chúng tôi xin vào ở nhờ và nấu ăn.
Đồng bào đón tiếp rất niềm nở, vẫn là cái nền nếp có từ kháng chiến: Bộ đội, cán bộ đi công tác, đến nhà dân nào cứ việc vào chào hỏi và xin ăn ở là được. Không bao giờ có sự từ chối và tính đếm. Không ngờ, chiều đó cả đoàn lại được đồng bào cho ăn cỗ 30 Tết! Bất ngờ nữa là sáng hôm sau, còn tinh mơ, ông Chủ tịch xã đi mời cả đoàn ra dự mít tinh đón năm mới, hát quốc ca. Bịn rịn, ra đi không được vì bà con nhất quyết giữ, thế là chúng tôi phải ở lại đây ăn Tết mồng Một với dân làng. Hôm sau, mồng Hai Tết chúng tôi lên đường đi Bảo Hà. Từ đây, đường là đường mòn trên nền đường sắt cũ đã bóc dỡ trong tiêu thổ kháng chiến từ năm 1946. Tràn lấn ra mặt đường là lau lách cỏ dại, hoang vu, vắng vẻ.
Con đường nhỏ mờ mờ ẩm ướt gập ghềnh, len lỏi. Thi thoảng mới lại gặp một vài cán bộ đi bộ, dắt xe đạp. Xe đạp đi được đoạn nào thì tranh thủ đi, không là dắt. Sau này nhiều lần tôi đã đi xe đạp từ Lao Cai về Yên Bái và ngược lại. Muốn đi xe đạp được đoạn đường này phải biết bơm và vá xe lấy. Vì hiệu chữa xe không có. Gặp lúc săm bị thủng, phải tự móc lốp tìm chỗ thủng rồi thay vì đánh giấy ráp, bôi nhựa vá, phải kiếm lấy con nhái lột da nó ra làm thành miếng vá, áp vào chỗ thủng hoặc giả phải lấy kìm kẹp chỗ săm thủng kéo dài ra, rồi lấy chỉ quấn thít thật chặt chỗ đó lại... “Đó là những năm tháng gian khổ nhưng đầy niềm vui, đầy sự háo hức, niềm tin và lạc quan tuổi trẻ” - nhà văn nhớ lại.
Nói về chuyện Tết, nhà văn Ma Văn Kháng chia sẻ rằng, có những cái Tết trong cuộc đời khiến người ta không bao giờ quên được, dù có bao nhiêu sự kiện đã xảy ra: Chiều ấy, 29 Tết Quý Hợi, tôi ngồi cắn bút, vẳng nghe tiếng pháo từ phố phường xa xa vọng về. Gió rét căm căm. Tôi ngồi co ro ở căn buồng trong. Một lát, cửa mở, ào vào ba cái măng tô san và rộn lên tiếng phụ nữ nói cười. Vợ tôi và hai bà chị dâu, chị Nguyễn Thị Liên vợ anh Đinh Trọng Lạc, chị Nguyễn Kim Thành, vợ anh Định Trọng Cảng, đi chợ Tết về.
Ngổn ngang trên sàn, rối tinh rối mù là mứt, bánh, kẹo, măng miến, mộc nhĩ, nấm hương, bánh đa nem, đậu xanh, mì chính, hạt tiêu... toàn những thứ mua bằng tem phiếu, như một bức tranh tĩnh vật đủ màu sắc Tết nhất! Chà, còn gì vui bằng đi chợ Tết! Còn gì thích hơn là được nghe các chị tíu tít chuyện trò về giá cả chợ búa Tết nhất! Và thế là ý nghĩ đầu tiên về cuốn tiểu thuyết về đề tài gia đình đã được sinh thành. 30 Tết Quý Hợi, tức 12 tháng 2 năm 1983, tôi bắt tay vào viết cuốn “Mùa lá rụng trong vườn”. Viết hối hả trong cả mấy ngày Tết. Những gì đã có, tưởng như đã chìm đắm vào lãng quên mà hóa ra không phải, chúng vẫn còn ở đâu đó trong ký ức, chỉ cần khẽ cất lời huy động là lập tức có mặt, hiện lên thành câu thành chữ trên trang viết ngay. Sau Tết, từ ngày 1 tháng 3 năm 1983, công việc theo đà tăng tốc đến chóng mặt. Cuối tháng 6 năm 1983, tôi nộp bản thảo đầu tiên cho Nhà xuất bản Phụ nữ...
Cho đến nay, trong chồng bản thảo dày cộp mà Ma Văn Kháng lưu giữ, vẫn còn nhiều tác phẩm dở dang cần hoàn thiện, nhưng ông phải xếp vào một góc bởi sức khỏe không cho phép. Ông thủng thẳng: Cụ Nguyễn Tuân, văn sĩ bậc nhất nước ta có nói một ý rất hay: Sống tích cực có nghĩa là phải viết nó lên trang giấy. Thế là tôi nổi nhiều cơn hứng bất tử. Chẳng hạn như năm 2009, sau khi viết xong tiểu thuyết Một mình một ngựa, tôi bị ốm một trận dài và phải vào nằm viện điều trị. Tuổi đã cao, lại mang bệnh trọng nên ra viện thì đành tặc lưỡi: Thôi, đã đến lúc kết thúc mọi dự định viết lách được rồi. Nhưng rồi, rốt cuộc hóa ra cũng không phải. Văn chương là cái quái gì mà nó quyến rũ mê mẩn, nó như ma ám quỷ giục người ta thế! Thành ra, động mạch vành bị tắc, đã đặt vào đó 3 cái stent rồi, vậy mà, ngồi dậy được, nhúc nhắc chân tay được, là lập tức lại tìm đến trang giấy, cái bút. Sau đó vẫn có 3 cuốn thiểu thuyết khác lần lượt ra đời…