Tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ, rồi tranh Kim Hoàng, là những dòng tranh nổi tiếng với những nét nghệ thuật đặc trưng. Chỉ là những bức vẽ đơn sơ, nhỏ bé, nhưng chính những đường nét mộc mạc, sắc màu tự nhiên đã hình thành nên một thế giới quan thu nhỏ, chứa đựng những tinh hoa, tư duy và triết lý sống của người Việt. Mỗi bức tranh cũng là một thông điệp, một lời cầu chúc cho năm mới gặp nhiều may mắn...
Tranh Hàng Trống
So với các dòng tranh dân gian, tranh dân gian Hàng Trống có thể xem là dòng tranh thể hiện những nét tinh hoa dân tộc đậm sắc nhất. Trong đó triết lý sống được bộc lộ, kỹ thuật tay nghề và gu thẩm mỹ Việt đặc trưng cho văn minh đô thị xưa.
Một bức tranh Hàng Trống rất được ưa chuộng xưa.
|
Tranh Hàng Trống xưa được làm và bày bán chủ yếu tại các phố Hàng Trống, Hàng Nón, Hàng Hòm và Hàng Quạt, thuộc tổng Tiêu Túc (sau đổi là Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm, Hà Nội), nhưng chủ yếu là ở Hàng Trống (xưa là thôn Tự Tháp). Cùng với các hộ dân cư bản địa lâu đời, cũng có nhiều thợ vẽ và thợ khắc tài hoa từ nơi khác đến đây làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do buôn bán cạnh tranh, trên tranh thường in kèm tên hiệu như Thanh An, Vĩnh Lợi, Phúc Bình.
Tranh Hàng Trống có hai loại chủ yếu: Tranh thờ và tranh Tết. Tranh thờ thì có tranh Phật, Tam tòa Thánh Mẫu, Tứ phủ, Ngũ hổ... gắn liền với Đạo Mẫu của Việt Nam. Tranh Tết thì Chúc phúc, Tứ quý, Tố Nữ ... Về thời điểm ra đời của dòng tranh, các nhà nghiên cứu cho rằng vào khoảng thế kỷ 16 và chịu ảnh hưởng đậm nét của các luồng tư tưởng, văn hóa, tôn giáo; là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo, Nho giáo, đặc biệt là Đạo Mẫu; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình, chùa với những nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa hằng ngày. Không những vậy, tranh Hàng Trống còn có sự ảnh hưởng của dòng tranh Niên họa, chúc phúc của Trung Quốc.
Khác với tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống mang một bản sắc riêng và thẩm mỹ của dân thị thành. Khuôn khổ của tranh Hàng Trống cũng lớn hơn nhiều so với các dòng tranh dân gian khác. Ván khắc tranh chỉ có duy nhất một ván nét với đường nét tinh tế thanh mảnh. Những tranh như: Ngũ Hổ, Công, Cá, cho thấy một kỹ thuật khắc gỗ đạt đến trình độ tuyệt sảo. Chúng đáp ứng nhu cầu chơi tranh của giới thị thành. Tranh Hàng Trống dẫu chỉ trải qua hai công đoạn in và vẽ thôi, nhưng nó đã làm nên cả một thế giới quan của người Việt. Ván khắc được lăn mực đều sau đó đặt giấy lên sao cho thật phẳng dùng bàn xoa, xao lên mặt sau của tờ giấy cho những nét khắc được hiện hình. Sau khi đã có nét, tranh Hàng Trống bắt đầu được tô màu bằng bút lông hoặc bút thép. Cách tô màu của tranh Hàng Trống cũng hết sức đặc biệt. Bút lông mềm rộng bản, một nửa ngọn bút chấm màu, còn nửa ngọn bút kia chấm nước lã, khiến cho nét bút khi đặt xuống mặt giấy đã có hai sắc độ đậm nhạt khác nhau.
... và bản khắc - tranh Hàng Trống |
Sau khi vẽ nét xong, tranh Hàng Trống thường được bồi bằng ba đến bốn lớp giấy, vì đặc thù của tranh khắc gỗ chỉ cho những đường nét đẹp trên một nền giấy mỏng (thường là giấy báo hay giấy xuyến chỉ, cao cấp hơn là nền lụa). Những chất liệu này sẽ khiến tranh có một hiệu ứng màu tốt. Tùy thuộc từng tranh cụ thể mà có tranh chỉ bồi một lớp, có tranh lại phải bồi đến 2 hay 3 lớp giấy. Khi hồ đã khô thì mới có thể vẽ mầu lại. Có khi phải mất đến 3, 4 ngày mới hoàn thành một bức tranh. Có những tranh bộ khổ to và dài, thường bồi dầy, hai đầu trên dưới lồng suốt trục để tiện treo, phù hợp với kiểu kiến trúc nhà cao, cửa rộng nơi thành thị. Do tranh chỉ có một bản nét, còn màu là do nghệ nhân tô vẽ lên, nên tranh Hàng Trống có những dung sai nhất định. Nhiều khi chính việc vẽ hoàn thiện bức tranh mới là công đoạn tạo nên hồn cốt của tác phẩm. Rất nhiều tác phẩm Hàng Trống bên cạnh nét đen, còn có thêm các nét màu, khiến cho tranh trở nên tinh tế và thay đổi trong từng tác phẩm.
Màu sắc trong tranh Hàng Trống cũng có những nét khác so với các dòng tranh. Màu cũng được chế từ tự nhiên, hoặc sử dụng phẩm màu. Tranh dùng nhiều các gam màu tươi rói như lam, hồng đôi khi có thêm lục, đỏ, da cam, vàng... Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ; màu vàng từ hoa hòe; màu chàm (xanh lục) của các loại nguyên liệu từ núi rừng; màu son bằng đá son tán nhuyễn. Các màu hồng điều, lam, lấy từ màu phẩm. Những sắc màu bình dị ấy pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh một vẻ óng ả và trong trẻo mà các loại màu hiện đại không thể nào có được. Để tạo ra được một loại màu cổ truyền, các nghệ nhân phải ủ, phải sắc như sắc thuốc bắc, phải cô đặc dần bằng cách đun nhỏ lửa liên tục mấy ngày trời rồi lại lắng cặn, chắt nước. Đây cũng là bí quyết riêng của mỗi nhà khắc in vẽ tranh Hàng Trống.
Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếu là tranh thờ như: Hương chủ, Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ông Hoàng Ba, Ông hoàng Bẩy, Tam Tòa, Thánh Mẫu Thượng Ngàn... Ngoài ra cũng có những bức tranh chơi như: Tố nữ, Bốn mùa (mỗi bản bốn vế), Tranh Kiều, Nhị độ mai; hoặc những bức phỏng theo các vở tuồng. Những bức tranh chơi này thường được bán vào dịp Tết, phục vụ cho giới thị dân trang hoàng nhà cửa đón một năm mới thanh bình và sang trọng. Mỗi bức tranh lại mang một thông điệp riêng, thể hiện quan niệm và nhân sinh quan của người Việt xưa về cuộc sống.
Các tranh thờ Đạo Mẫu thì thường dựa trên các sự tích, truyền thuyết về các vị Thần, Phật, Thánh Mẫu để vẽ. Những bức vẽ Thánh Mẫu như: Tam Toàn Thánh Mẫu, hay Thánh Mẫu địa, thoải, thượng ngày, không chỉ thể hiện ra sự kính ngưỡng với những vị Thần, Mẫu của dân gian, mà các tác phẩm này còn thể hiện ra những sự tinh tế của trang phục, sự tao nhã của lối sống sang quý và mang hồn cốt của người Việt. Tính chất cân bằng, đăng đối trong tác phẩm cũng thể hiện rõ. Thường các nhân vật trong tranh cũng thể hiện ra ngôi vị và vai trò của mình. Nhân vật trung tâm bao giờ cũng được thể hiện kỹ càng nhất, thậm chí kích thước của những nhân vật này lớn hơn hẳn các nhân vật khác được vẽ trong tranh. Bức tranh Ngũ Hổ còn thể hiện ra quan niệm về thế giới qua màu sắc ngũ hành. Tất cả được mã hóa và hình ảnh các vị chúa Sơn Lâm, biểu trưng cho sức mạnh, các màu sắc như Hoàng hổ: Con hổ ngồi chỉnh trện giữa tranh được vẽ vờn bằng màu vàng, tượng trưng cho hành thổ - ứng với trung ương chính điện; Thanh Hổ: Hổ được vẽ bằng màu xanh là tượng trưng cho hành Mộc, ứng với phương đông; Bạch Hổ: Hổ trắng là hành Kim ứng với phương tây. Xích hổ: Hổ đỏ là hành Hỏa ứng với phương nam; Hắc hổ: Hổ đen là hành Thủy ứng với phương bắc. Sự sắp đặt của các nhân vật này trong tranh đã tạo nên vòng tuần hoàn của nguyên lý ngũ hàng tương sinh tương khắc. Do vậy vào dịp lễ Tết, các tranh này thường được mua về, với quan niệm tạo thêm sinh khí của một năm mới no ấm, sung túc.
Phát triển trong một thời gian khá dài, nhưng tới thế kỷ 20, dòng tranh này bắt đầu suy tàn, nhất là kể từ sau kết thúc chiến tranh Việt Nam, hầu như các nhà làm tranh đều bỏ nghề. Nhiều nhà còn đốt bỏ hết những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc. Trong số bản khắc tranh Hàng Trống còn giữ lại được, có một số tấm đặc biệt giá trị, lưu tại Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Những tấm gỗ thị dầy dặn này được khắc cả hai mặt, theo đề tài rút từ kinh nhà Phật hay cổ tích Việt Nam, Trung Hoa. Trên một số ván khắc có ghi cả niên đại “Quý Mùi lục nguyệt khởi Minh Mệnh tứ niên”, tức là 1823 Dương lịch (bộ ván khắc lưu ở Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). Những tấm ván này được khắc cách đây đã ngót hai trăm năm, nên ta có cơ sở tin rằng dòng tranh Hàng Trống xuất hiện còn sớm hơn thế khá nhiều.
Hiện nay ở Hà Nội còn lại duy nhất nhà nghệ nhân Lê Đình Nghiên còn vẽ và in tranh. Ông sinh năm 1950, là con trai cụ Lê Đình Liệu sinh năm 1912. Theo gia đình cho biết, đây là nghề gia truyền từ đời cụ tổ từ khoảng cuối thế kỷ XVI. Gia đình nhà ông Nghiên hiện nay còn giữ được khoảng 50 ván tranh khắc cổ của Hàng Trống xưa.
Tranh dân gian Kim Hoàng
Tranh Kim Hoàng là tên thường gọi của một dòng tranh dân gian phát triển khá mạnh từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19 của làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội. Làng này vốn là sự hợp nhất của hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng, thành Kim Hoàng. Hai làng này đã xây dựng đình chung "Trưởng bảng hội đình" vào năm Chính Hòa thứ 22 (1701), cũng được xem là thời gian cho sự bắt đầu nghề in tranh của làng.
Tương truyền, dòng họ Nguyễn Sĩ là dòng họ làm tranh sơ khởi người Thanh Hóa, theo mẹ ra Thăng Long rồi lập nghiệp ở đây. Không may thay, trận vỡ đê Liên Mạc năm Ất Mão (1915) gây ngập lụt một vùng rộng từ Phùng về Cầu Giấy, đã cuốn trôi mất nhiều ván in. Từ đó nghề vẽ tranh Kim Hoàng cũng ngày càng sa sút, cho đến sau Cách mạng tháng Tám, người ta hoàn toàn không sản xuất nữa. Vì thế trong nhiều năm, tranh Kim Hoàng hầu như đã bị lãng quên và xem là thất truyền. Mãi đến năm 1975 - 1976, dòng tranh này mới lại có dịp được giới thiệu trước công chúng.
Tranh dân gian Kim Hoàng mang một nét đặc trưng khác biệt với hầu hết các dòng tranh dân gian khác có lẽ chính là màu sắc. “Tranh Đỏ” là cái tên thường được dân gian gọi để phân biệt tranh dân gian Kim Hoàng và các loại tranh dân gian khác như Đông Hồ hay Hàng Trống. Giấy in không quét điệp như tranh Đông Hồ (tranh giấy điệp trắng hay còn gọi là tranh trắng), cũng không dùng giấy xuyến, giấy dó như tranh Hàng Trống (tranh trắng mộc), mà in trên giấy màu đỏ, giấy hồng điều, giấy tầu vàng. Tranh lợn bột in hình con lợn mình đen, viền trắng cách điệu rất ngộ nghĩnh giống như những con lợn đất bán ở chợ, trên nền giấy đỏ tạo một vẻ đẹp riêng gây ấn tượng mạnh mẽ của tranh Kim Hoàng.
Tranh Kim Hoàng cũng đủ loại tranh thờ cúng, chúc tụng như một số dòng tranh khác cùng thời (Đông Hồ, Hàng Trống). Nhưng tranh Kim Hoàng lại kết hợp nhiều ưu điểm của hai dòng tranh đó. Tranh Kim Hoàng có nét khắc thanh mảnh, tỉ mỉ hơn tranh Đông Hồ; màu sắc tươi như tranh Hàng Trống. Về màu, tranh Kim Hoàng dùng mực tàu, trắng là thạch cao, phấn; chàm, xanh chàm từ mực tàu hòa với nước chàm và các màu hóa học.
So với tranh Đông Hồ, thì tranh Kim Hoàng cũng mang nhiều yếu tố khác biệt. Có lẽ do gần gũi với chốn thị dân hơn, nên khi vẽ, sản xuất tranh dù phục vụ nông dân nhưng từ nguyên liệu đến cảm hứng thẩm mĩ đều chịu ảnh hưởng của thành thị. Dân Kim Hoàng thuộc nhiều họ khác nhau ở xen lẫn, các họ Nguyễn Sĩ (đông nhất), Nguyễn Thế, Trần Đức, Trần, Phạm, trước kia có làm tranh và đã tổ chức được phường tranh Kim Hoàng. Theo truyền thống, khi còn tổ chức phường tranh thì toàn bộ ván là tài sản của phường, do chủ phường giữ, hàng năm đến ngày rằm tháng mười một Âm lịch, sau khi làm Lễ giỗ ông Tổ phường, ván được chia cho các gia đình mang về in. Trong quá trình sản xuất tranh Tết, các gia đình có thể đổi ván cho nhau để in nhiều mẫu. Hết mùa ván in lại tập trung giao cho chủ phường giữ.
Các cụ ở Kim Hoàng còn nhớ tranh Tết trước đây có nhiều loại khác nhau, phổ biến nhất là tranh thờ gồm các bức Ông Công (tức Thổ Công), Ông Táo (tức Táo Quân) và Ông Sư (tức Tiên sư). Đấy là ba vị thần mà các gia đình nông dân hay thợ thủ công nào cũng rất sùng kính. Các tranh để trang trí nhà cửa, đồng thời để cầu mong làm ăn phát đạt, may mắn, thì có các bức “Tiến Tài”, “Tiến Lộc”, “Lợn Gà”. Các tranh “Đi cày” và “Đi bừa” vừa nói lên sự lao động vất vả, vừa tỏ ý cầu mong được no ấm. Vui nhất là những tranh về cảnh sinh hoạt tình tứ của trai gái như Hứng dừa, và cảnh hội làng như “Đánh vật”, “Chọi trâu”, “Chọi gà” tỏ rõ một tinh thần thượng võ cao. Lại có cả những tranh mang tính răn dạy theo phương ngôn như “Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”, hay theo tích truyện hiếu nghĩa trong “Nhị thập tứ hiếu”, hoặc vài cảnh trong truyện Nôm dân gian như Thạch Sanh. Ngoài ra còn có những bức hoành đại tự “Đức lưu quang” (Đức tốt giữ mãi ánh sáng) và “Phúc mãn đường” (Phúc chứa đầy nhà) mà trong từng nét chữ còn được cài hoa lá, thể hiện cảnh sắc bốn mùa. Cùng với những hình ảnh, trong nhiều tranh còn khắc kèm cả bài thơ hoặc câu đối hay một lời chúc tụng để nói rõ chủ đề của bức tranh.
Màu của tranh, ngoài màn nền, trước hết là “màu đen” in từ ván gỗ lên giấy. Màu này lấy từ những thỏi mực đen, mực tàu. Bảng màu ở Kim Hoàng cũng giống như Đông Hồ còn có: Trắng, vàng, xanh lơ, xanh lá cây (xanh lục), chàm, tím, hồng, đỏ sẫm. Trừ màu chàm mua nguyên liệu về chế lấy, các màu khác đều có bán ở thị trường. Muốn có màu chàm thì đem cây chàm ngâm riêng cành và lá, sau đó chắt bỏ nước trong, rồi gạn lấy chất cái đánh nhuyễn ra. Màu chàm thường trộn với mực đen để tạo ra thứ màu xanh đen. Màu trắng thì mua phấn thạch cao, ngâm nước cho mềm rồi đánh nhuyễn. Các màu trên, khi dùng phải pha keo da trâu. Khó pha nhất là màu phẩm hồng, pha khéo thì được màu cánh sen tươi, không đúng cách thì chuyển thành màu máu đỉa.
Sau khi chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu, Lễ giỗ Tổ phường được diễn ra, các gia đình nhận ván về, cả nhà tập trung vào in và “chấm phẩm”. Qui trình in cũng có nguyên tắc chung như in tranh Đông Hồ. Ván in để ngửa, dùng chổi thông, nhúng vào chậu mực, rồi quét lên ván gỗ, sau đó đặt úp tờ giấy đỏ lên mặt ván dùng xơ mướp tấm sáp hoặc nén, xoa phía trên tờ giấy, cho nét và màng hình đen từ ván in dần lên mặt giấy. Bóc giấy ra sẽ được tranh đen trên nền giấy đỏ. Nét ở tranh Kim Hoàng do không in lên giấy điệp (có gợn gồ ghề hơn) nên đen tuyền, mịn, mượt chứ không được rỗ xốp như “màu đen” ở tranh Đông Hồ. Đã có hình in đen rồi, dựa vào những phần mảng của nét để từ các màu khác mà nhân dân địa phương gọi là “chấm phẩm”. Về hình thức này, thì tranh Kim Hoàng lại khá giống với Làng Sình.
Tranh Kim Hoàng bắt đầu làm từ sau Lễ giỗ Tổ cho đến giáp Tết. Thời tiết giá rét làm cho phẩm pha vào keo sẽ đông quánh, vì thế bát màu phải đặt trên bếp nóng để vẽ. Nếu bếp nóng quá, màu phạm sẽ không tươi mà bị xỉn lại. Các màu sa thanh và sa lục là bột đất, nên sau khi chấm màu mà để khô thì sẽ hơi nháp. Chấm màu xong, các nét in ban đầu bị phủ đè gần hết, nên giữa các mảng màu không còn đường bờ gìm giữ lại, sẽ bồng bềnh, chao đảo. Tờ tranh để vậy coi như xong. Nhưng muốn tăng hiệu quả nghệ thuật phải được nâng cao bằng kỹ thuật in đồ, tức in lại nét đen lên trên các mảng màu, in sao cho trùng với nét đen in ban đầu. In đồ là việc khó, chỉ những người cứng tay nghề mới làm được.
Đến những ngày giáp Tết xưa, không khí làm tranh lại càng nhộn nhịp ở các gia đình làm tranh, mọi người làm việc tất bật, làm ngày rồi tối đến lại chong đèn ba dây mà chấm phẩm. Sau một tháng làm tranh, đến ngày rằm tháng Chạp thì phường làm Lễ Thánh sư, rồi mới mang tranh đi bán. Tranh bán rộ nhất là từ ngày Tết ông Táo (23 tháng Chạp). Tranh Kim Hoàng được quẩy về các chợ như Sấu Giá, chợ Sơn Đồng, chợ Chùa Thầy, chợ Phùng, chợ Vạng, chợ Trám Trôi, chợ Canh, chợ Diễn, chợ Tây Tựu… Thời thịnh nhất, mỗi chợ có đến 5 - 10 chiếu tranh. Theo các cụ kể lại những năm phát đạt, đi chợ bán tranh về phải được một gánh tiền Tự Đức nặng. Ngày nay, khi làng nghề hoàn toàn thất truyền, một vài ván in của dòng tranh này còn được lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Một số khác, được nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế ở Làng Hồ (Đông Hồ) sưu tập được.