Thách thức lớn
Tại Việt Nam, ước tính mỗi người dân tiêu thụ, sử dụng khoảng 30 - 40kg nhựa/năm và là 1 trong 4 quốc gia tại Châu Á phát sinh chất thải nhựa nhiều nhất. Riêng 2 thành phố Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đang thải ra môi trường khoảng 80 tấn nhựa và túi nilon/ngày.
Bên cạnh đó, số lượng bao bì nhựa và túi nilon sử dụng ngày càng gia tăng ở Việt Nam dẫn đến lượng thải bỏ tăng dần theo từng năm. Tỷ lệ chất thải bao bì, túi nilon không được tái sử dụng, phải chôn lấp chiếm từ 5 - 8%, tương đương với khoảng 2,5 triệu tấn/năm.
Đi vào từng lĩnh vực cụ thể, theo bà Cao Lệ Quyên (Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản) cho biết, với lĩnh vực khai thác thủy sản, phát thải nhựa đến từ túi đựng cá, khay nhựa, sọt nhựa... Ở lĩnh vực nuôi trồng thủy sản có những rác thải nhựa như bao bì chứa thức ăn, chế phẩm sinh học... Trong khi đó, rác thải nhựa từ khâu dịch vụ hậu cần nghề cá đến từ bao gói cá, chai lọ đựng thuốc thú y.
Còn trong nông nghiệp, đối với mỗi loại cây trồng khác nhau sẽ có những cách sử dụng nguyên vật liệu nhựa khác nhau. Điển hình như cây lúa, phổ biến hiện nay là cách sử dụng màng phủ nilon để che mạ và có thể được tái sử dụng trong 2 hoặc 3 vụ, tùy thuộc vào cách sử dụng, cách bảo quản của người nông dân.
Các hệ thống tưới trong nông nghiệp công nghệ cao sử dụng khoảng 1.200 kg nhựa/ha, chủ yếu là các ống PC, PVC... Đáng chú ý, những vùng nông nghiệp công nghệ cao như Lâm Đồng (Đà Lạt), Mộc Châu (Sơn La) sử dụng các nhà màng che phủ bằng nhựa có thể lên tới vài tấn nhựa/ha.
Điều đáng nói là, hiện nay rác thải nhựa phát sinh từ sinh hoạt, tiêu dùng thì hầu hết chưa được phân loại tại nguồn; chỉ có những chất thải nhựa có giá trị tái chế (chai nước, bao nilon...) được thu gom từ nhiều nơi còn chất thải nhựa không có giá trị hoặc có giá trị tái chế thấp (hộp xốp các loại, ống hút nhựa...) bị thải ra môi trường hoặc đưa vào bãi rác, lò đốt.
Việc xử lý chất thải nhựa và túi nilon phát sinh từ hộ gia đình, chợ, khu vực công cộng chủ yếu được xử lý cùng với chất thải rắn sinh hoạt, chủ yếu bằng biện pháp chôn lấp. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến môi trường đất, nước… do chất thải nhựa khó phân hủy, có khi mất đến hàng trăm năm mới phân hủy được.
Hoàn thiện chính sách
Nhận thức được tầm quan trọng về quản lý chất thải nhựa và túi nilon, những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều có nỗ lực trong việc bảo vệ môi trường cũng như hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng như Chỉ thị số 33/CT-TTg về tăng cường quản lý, tái sử dụng, tái chế, xử lý và giảm thiểu chất thải nhựa; và Quyết định số 1746/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030.
Bên cạnh đó, Việt Nam có Chiến lược quốc gia về quản lý chất thải rắn đến 2025, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, mục tiêu năm 2025 là sử dụng 100% túi nilon thân thiện với môi trường tại các trung tâm thương mại..., giảm thiểu 50% rác thải nhựa trên biển và đại dương...
Theo ông Nguyễn Thành Lam, Vụ Quản lý chất thải, Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT), để đạt được mục tiêu trên, việc hoàn thiện chính sách, pháp luật quản lý chất thải nhựa là nhiệm vụ trong tâm. Trong thời gian tới, Tổng cục Môi trường tiếp tục nghiên cứu, đề xuất xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm hạn chế tác động của rác thải nhựa tới môi trường; chú trọng các chính sách hỗ trợ, khuyến khích sử dụng các loại vật liệu thân thiện với môi trường, tăng cường tái chế và tái sử dụng chất thải.
Cùng đó, xây dựng văn bản hướng dẫn về “Giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa, phòng chống ô nhiễm rác thải nhựa đại dương” trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua. Trong đó, quy định về giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa; các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm thay thế sản phẩm nhựa dùng một lần và sản phẩm thay thế bao bì nhựa khó phân hủy sinh học được chứng nhận thì được hưởng ưu đãi, hỗ trợ theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án tăng cường công tác quản lý rác thải nhựa ở Việt Nam”.