Trong thời gian qua, trên cả nước liên tiếp xảy ra hàng chục vụ sạt lở đất đá. Trong số đó, một số vụ gây thiệt hại nghiêm trọng như: Sự cố sạt lở đất tại đèo Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng; sạt lở đất đá, đường giao thông và thiệt hại về người, nhà ở, hoa màu ở các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Hòa Bình, Đắk Nông, Yên Bái…
Phóng viên Báo Tin tức đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Tân Văn, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường) về vấn đề này.
Thưa ông, chỉ trong thời gian ngắn vừa qua, trên cả nước liên tiếp xảy ra hàng chục vụ sạt lở đất đá tại nhiều địa phương. Ông có nhận định gì về nguyên nhân chính dẫn tới các vụ sạt lở đất liên tiếp này?
Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây ra trượt, sạt lở đất đá liên tiếp xảy ra trong thời gian qua. Thứ nhất là do mưa lớn kéo dài nhiều ngày làm cho đất đá bị bão hòa nước, khiến các sườn dốc trở nên mất ổn định hơn.
Cùng với đó là do hoạt động của con người. Thực tế, các hoạt động dân sinh đã góp phần làm trầm trọng thêm các dấu hiệu mất ổn định của các khối đất đá tại những khu vực sườn dốc.
Nghiên cứu cho thấy độ ổn định sườn dốc thường do ba nhóm yếu tố quyết định là: Hình thái sườn dốc (ví dụ như độ dốc, chiều cao, các chiều dài, rộng); tính chất cơ lý của đất đá tạo nên sườn dốc (ví dụ ở các tỉnh Tây Nguyên phân bố nhiều đá núi lửa bazan, phong hóa ra thành đất đỏ có chiều dày lớn, tơi xốp, dễ bị rửa trôi, bóc mòn, dễ bị phá huỷ kết cấu khi bão hòa nước. Đặc biệt là các sườn dốc “nhân tạo”, ở những nơi phải đổ đất, đắp lên, đầm chặt để tạo thành nền đường, thì lại càng dễ bị trượt sạt); Yếu tố cuối cùng là nước, bao gồm cả cả nước mặt lẫn nước ngầm. Các nhà địa chất, địa kỹ thuật thường nói “nước là kẻ thù của sườn dốc”. Thực tế, nước làm cho đất đá tạo nên sườn dốc bị bão hòa, giảm sức bền, tăng trọng lượng của khối trượt tiềm năng, từ đó dễ gây trượt.
Do vậy, những đợt mưa lớn kéo dài nhiều ngày, kết hợp với hoạt động dân sinh của con người, đã khiến đất đá tại các sườn núi bị bão hòa nhanh hơn, chính là yếu tố “kích hoạt” trực tiếp gây sạt trượt, nứt đất trong thời gian qua tại nhiều tỉnh, thành phố ở trên cả nước.
Tôi cho rằng các hoạt động dân sinh mà thiếu tính toán, thiếu cân nhắc về hậu quả có thể xảy ra càng ngày càng đóng vai trò mấu chốt hơn trong việc gây ra hình thái tai biến địa chất trên.
Cùng với đó, các kết quả điều tra, khảo sát về trượt lở trong thời gian qua ở các khu vực miền núi trên phạm vi toàn quốc cho thấy phần lớn các điểm trượt lở, sạt lở đều xảy ra ở dọc theo các tuyến đường giao thông đi qua.
Thực tế, khi thi công các tuyến đường giao thông bắt qua đồi núi đều làm mất chân sườn dốc tự nhiên, từ đó làm gia tăng khả năng xảy ra trượt, sạt lở đất đá. Đáng lẽ, khi thi công công trình, đường giao thông, mà làm mất chân sườn dốc tự nhiên, người ta cần phải áp dụng biện pháp gia cố, gia cường các sườn dốc đảm bảo chắc chắn, an toàn, tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp đã không làm.
Thay vào đó, đôi khi người ta chỉ tập trung làm cho được con đường, còn việc gia cố hay khắc phục trượt lở đất ở ven đường tính sau. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế hiện nay, nhất là sau rất nhiều vụ sạt lở đã xảy ra, tôi cho rằng cần phải thay đổi một cách căn bản về cách đầu tư khi triển khai thi công đường giao thông.
Thưa ông, xin ông chỉ ra các dấu hiệu nhận biết cũng như cảnh báo, giúp người dân nhận biết về nguy cơ trượt lở đất đá?
Thông thường các vết nứt xuất hiện chính là một trong những dấu hiệu đầu tiên của một vụ sạt lở. Tiếp theo là các dòng nước lẫn bùn rỉ ra dưới chân sườn dốc, cây cối trồng trên sườn dốc bị nghiêng đổ.
Theo thời gian, nếu vết nứt càng ngày càng lớn, càng dài, càng sâu thì khả năng trượt lở sẽ càng cao. Vết nứt xuất hiện sẽ gây ra tiếng động, vết nứt càng lớn thì tiếng động càng lớn, chính là tiếng nổ mà nhiều người nghe được.
Tại những nơi có địa hình dốc và các hoạt động nhân sinh như san gạt lấy mặt bằng xây nhà cửa, công trình, làm đường sá, làm mất chân sườn dốc sẽ có nguy cơ trượt lở cao khi mưa lớn kéo dài ngày khiến đất đá bị bão hòa.
Thông thường, các sườn núi, sườn đồi tự nhiên sẽ ít xảy ra sạt trượt vì tất cả các quá trình phong hóa, xói mòn, rửa trôi trải qua mưa, nắng, gió hàng ngày, hàng mùa đã xảy ra từ từ, dần dần nên sườn dốc trở nên thoải, đạt đến một góc độ tối ưu, cân bằng, ổn định, ít khi trượt, sạt nữa.
Tuy nhiên, với những khu vực sườn núi tự nhiên có hoạt động nhân sinh tác động vào như làm đường, mở rộng đường; san gạt, tạo mặt bằng để làm nhà, xây đô thị; chặt cây, đốt rừng để trồng cây ăn quả, làm mất đi lớp phủ thực vật bảo vệ tự nhiên, hay làm ứ đọng nước trên sườn dốc thì khi đó sườn dốc không còn tự nhiên nữa, rất dễ mất ổn định, nhất là khi mưa lớn kéo dài dễ xảy ra sạt, trượt.
Với sườn dốc nhân tạo như các đoạn đường đất đắp, đất không có kết cấu tự nhiên thì nguy cơ sạt, trượt, nứt, sụt lún đất càng cao hơn.
Tại Đắk Nông, sự cố sạt lở từng xảy ra trên địa bàn, như tại đường vào thác Liêng Nung vào năm 2021.
Theo ông, đâu là những giải pháp để phòng, chống và giảm nhẹ các thiên tai trên?
Từ năm 2012 - 2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã giao Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản chủ trì thực hiện đề án “Điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam”. Đề án đã tiến hành điều tra, đánh giá nhằm xây dựng hệ thống các bản đồ hiện trạng, phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở cho nhiều tỉnh miền núi, trong đó có Lâm Đồng, Đăk Nông.
Tuy nhiên hiện tại đề án này đã dừng, có lẽ là để điều chỉnh lại việc tổ chức thực hiện. Về lâu dài, rất nên tiếp tục triển khai đề án này, vì kết quả của đề án cung cấp cho các địa phương những thông tin hết sức hữu ích về hiện trạng trượt lở, nguy cơ trượt lở cao có thể xảy ra ở đâu... làm cơ sở cho việc xây dựng hoặc điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại, lên phương án di dời người dân đến chỗ an toàn...
Một giải pháp khác là cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cộng đồng để người dân hiểu rõ mức độ nguy hiểm của việc san gạt, làm mất chân sườn dốc lấy mặt bằng xây dựng. Các dự án làm đường rất hay để xảy ra tình trạng này, vì thế ngay từ đầu cần khảo sát, thiết kế, thi công các sườn dốc “nhân tạo” cẩn thận, có tính toán kỹ các hệ số an toàn và có giải pháp gia cường, phòng tránh, giảm nhẹ nguy cơ trượt lở.
Đối với người dân và chính quyền địa phương cần lưu ý, nứt đất khi mưa to, kéo dài là một trong những dấu hiệu trực tiếp của sạt trượt. Thế nên động thái đầu tiên địa phương cần thực hiện là di dời người dân ra khỏi khu vực sạt trượt tiềm năng. Tiếp đó cần cử cán bộ kỹ thuật đến quan trắc, giám sát, theo dõi diễn biến của các vết nứt. Nếu vết nứt tiếp tục phát triển thì khả năng cao là trượt lở sẽ xảy ra, cần căn cứ kích cỡ các vết nứt để dự báo quy mô khối trượt, từ đó thực hiện di dời cho phù hợp.
Sau đó cần cân nhắc một số phương án khắc phục, xử lý trượt lở. Các nhà khoa học cũng đúc kết nhiều trường hợp xử lý trượt lở và thấy rằng thông thường các giải pháp công trình là rất tốn kém, nếu có thể thì tốt nhất là tránh, thí dụ làm đường tránh khỏi khối trượt. Nếu bắt buộc vẫn phải xử lý bằng giải pháp công trình thì cần khảo sát, thiết kế và thi công kỹ lưỡng, trong đó thoát nước sườn dốc một cách hiệu quả là vô cùng quan trọng.
Xin trân trọng cảm ơn ông!