Men theo những cánh rừng của đại ngàn Trường Sơn, ở các xã vùng cao huyện Nam Trà My (Quảng Nam) hằng ngày vẫn có những giáo viên thầm lặng hy sinh một phần hạnh phúc riêng tư của mình để đem con chữ, đem ánh sáng văn minh, đem tình yêu thương đến với các em học sinh đồng bào dân tộc thiểu số. Một trong số đó là thầy giáo Nguyễn Trãi. Hơn 20 năm gắn bó với từng ngôi nhà sàn, từng con suối, từng cây cầu treo của các xã Trà Nam và Trà Vân.
Từ những ngày khó khăn chung của nghề giáo...
Về nóc ông Ruộng, thôn 3, xã Trà Vân, huyện Nam Trà My (Quảng Nam) bây giờ hỏi thầy Trãi thì ai cũng biết. Từ những giáo viên trẻ mới về nhận công tác cho đến cán bộ thôn, những em học sinh và những phụ huynh người Ca Dong. Không chỉ là một thầy giáo hết lòng với từng con chữ, mà còn là người thầy luôn quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của các em học sinh cũng như đồng bào Ca Dong. Hơn 6 năm dạy học ở đây, với thầy mọi thứ giờ đã như rất thân quen.
Thầy Nguyễn Trãi trong một giờ lên lớp. |
Ra trường năm 1990, thầy từ quê nhà là xã Trà Dương (huyện Bắc Trà My bây giờ) tình nguyện lên xã Trà Nam (huyện Nam Trà My bây giờ) nhận công tác giảng dạy. Đường thì xa mà lại rất khó đi. Ngày đó xe khách, xe hàng chạy rất ít. Đa phần là phải đi bộ. Cứ sáng sớm, thầy mang ba lô và các thứ chuẩn bị sẵn lên đường đi mãi cho đến trưa. Chỉ dừng lại nghỉ một chút để ăn uống thôi vì sợ không kịp đến nơi xin tá túc buổi tối. Hồi ấy trên đoạn đường này rất ít nhà cửa và người qua lại. Rồi lại miệt mài đi cho đến tối, vào làng xin ngủ lại một đêm. Sáng hôm sau đi suốt một buổi nữa mới đến điểm dạy.
Thầy Trãi tâm sự: “Lúc ấy còn trẻ, mới ra nghề, nhiệt huyết đang hăng say, sức khỏe còn mạnh, đi đâu cũng tới. Cứ một mình một ba lô vậy mà đi lên chỗ dạy, lâu lâu lại về nhà. Năm thì mười họa mới xin được đi nhờ xe khách một đoạn. Vậy mà chưa bao giờ tôi và những đồng nghiệp tâm huyết ở nơi ấy nghĩ đến việc bỏ về...”.
Rồi đến chuyện lương. Năm 1990, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, nghề giáo viên cũng vậy, lương thì chỉ mang tính tượng trưng, có khi còn không có nữa. Đời sống thì kham khổ. Không ít người phải giã từ phấn trắng, bảng đen để về làm các công việc khác, để lo cho cuộc mưu sinh nuôi sống không chỉ bản thân mà còn cả gia đình mình. Theo lời thầy Nguyễn Trãi, thì những tháng đầu tiên, lương của thầy được 36.000 đồng. Cuối tháng, nhận được lương, về nhà, mua cho em, cho cháu mấy gói kẹo, mua cho mình vài thứ lặt vặt tối thiểu thì đã hết sạch tiền lương. Nhiều khi phải xin thêm tiền của ba mẹ để đem lên phòng những lúc bất trắc nơi rừng thiêng nước độc.
Nhưng rồi những ngày khó khăn ấy cũng dần qua đi...
Đến tấm lòng tận tụy của một người thầy chân chính...
Từ khi dạy ở các điểm trường của xã Trà Nam đến khi về Trà Vân, thầy Nguyễn Trãi lúc nào cũng lấy niềm vui của học sinh làm niềm vui của mình. Tất nhiên, những khó khăn ban đầu cùng với điều kiện sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và tách biệt sẽ làm bất cứ ai cũng có những giây phút ngần ngại. Với thầy Trãi cũng vậy, nhưng rồi những phút xao lòng ấy rất nhanh qua. Khi đã hòa nhập mình vào với không khí của núi rừng, cùng sống với bà con đồng bào Ca Dong thì mọi cái trở nên dễ dàng hơn.
Trong câu chuyện của mình, thầy Nguyễn Trãi cũng chia sẻ rất nhiều kỉ niệm cũng như kinh nghiệm đi sâu đi sát với đồng bào Ca Dong nơi thầy đã và đang dạy. Thật ra, dạy học ở vùng núi, thời gian rảnh rỗi cũng khá nhiều. Hồi mới đến, còn là một thanh niên, nếu không biết sử dụng thời gian, sẽ rất chán. Thế là vào nhà dân, hỏi thăm, nói chuyện cùng người dân. Rồi lên nương, lên rẫy cùng làm việc, cùng ăn để hiểu thêm về họ. Đây là cả một vấn đề do cách biệt về ngôn ngữ và văn hóa bản địa. Nhưng quan trọng nhất là tấm lòng chân thành. Khi thầy mở lòng, đem những hiểu biết của mình chia sẻ, giúp đỡ cho những người Ca Dong, mọi thứ càng ngày càng xích lại gần hơn. Từng buổi đến tận nhà động viên trẻ em ra lớp, từng viên thuốc hạ sốt, từng cây bút, cuốn vở mua từ đồng lương ít ỏi của mình. Thầy đã dần dần tạo được niềm tin yêu cho không chỉ học sinh mà còn cả những phụ huynh, những người già trong các bản làng mà thầy đã đi công tác qua.
Ở những cánh rừng đại ngàn này trong những năm 1990, những người giáo viên như thầy Trãi còn phải đối mặt với biết bao nguy hiểm. Không cẩn thận một chút là bị sốt rét ác tính. Với điều kiện y tế còn nhiều hạn chế, nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng là rất cao. Bình thường, từ trung tâm xã về đến điểm dạy đi bộ cũng hết gần một ngày đường. Huống gì bị đau. Chỉ còn cách nhờ đồng bào khiêng giúp, vượt suối băng rừng về trung tâm y tế. Ngày nắng còn đỡ, ngày mưa thì cầu treo tạm bị đứt, lũ quét tràn qua những con suối vốn yên bình. Lúc ấy, chỉ biết phó thác phận mình cho may rủi. Nói chung là nguy hiểm là điều không thể lường trước được. Nhưng rồi, tình yêu nghề của thầy vẫn cao hơn, quyết liệt hơn để rồi níu giữ được mình ở lại với những nóc nhà còn đói nghèo, những con suối dữ, những ngọn núi cao này...
Mãi rồi cũng quen, ở cái tuổi gần 50, đáng lẽ nhiều người sẽ tìm mọi cách để xin về gần hơn với gia đình, với vợ con. Nhưng thầy Trãi không làm vậy. Thầy tâm sự: “Về gần nhà thì ai không muốn. Nhưng giờ tôi thấy đây cũng gần gũi như nhà mình rồi. Điều kiện đi lại, sinh hoạt cũng bớt khó khăn hơn hồi trước nhiều rồi. Các em học sinh Ca Dong nơi đây làm tôi thương lắm. Làm được chút gì cho các em trước lúc về hưu là tôi vui rồi, vì tôi đã gánh trên vai trọng trách là nhà giáo...”.
Bài và ảnh: Nguyễn Thành Giang