Đây là các khu vực rộng lớn nhưng cằn cỗi, hầu như không có thực vật và một phần bị ô nhiễm kim loại nặng và các chất gây ô nhiễm khác, không phù hợp với sản xuất lương thực. Đất trồng trọt ngày càng trở nên khan hiếm, do vậy một lựa chọn phù hợp là thúc đẩy trồng cây năng lượng ở những bãi thải mỏ sau khai thác.
Nhằm triển khai các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng xanh, ứng phó với vấn đề biến đổi khí hậu trong khai thác khoáng sản tại Việt Nam, từ năm 2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam đã phối hợp với Bộ Môi trường, Bảo vệ thiên nhiên, Xây dựng và An toàn hạt nhân (Cộng hòa Liên bang Đức) nghiên cứu khả năng giảm phát thải khí nhà kính thông qua việc trồng, sử dụng các loại cây trồng có khả năng sản sinh năng lượng sinh học tại các khu khai thác mỏ bị bỏ hoang, tăng cường năng lực cho các bên liên quan trong các lĩnh vực trồng cây sản sinh năng lượng sinh học.
Tổng cục Môi trường phối hợp Viện Độc lập các vấn đề môi trường, Cộng hòa Liên bang Đức thực hiện Dự án thí điểm “Trồng cây năng lượng trên bãi thải sau khai thác khoáng sản tại Việt Nam”, với nhiều hoạt động được triển khai như: Lập danh sách các bãi thải sau khai thác khoáng sản bị bỏ hoang, thử nghiệm trồng nhằm nghiên cứu, phát triển hệ thống canh tác cây năng lượng phù hợp để cải tạo, phục hồi đất, xác định tiềm năng tận dụng và các phương pháp sử dụng sinh học khối, đưa ra cách tiếp cận về bảo vệ môi trường và kinh tế, tăng cường sử dụng năng lượng sinh học thay thế năng lượng hóa thạch, dự đoán các tác động do biến đổi khí hậu… Dự án cũng triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý các khu đất sau khai thác mỏ nhằm tăng cường công tác quản lý.
Tổng cục Môi trường phối hợp với các chuyên gia Cộng hòa Liên bang Đức và Việt Nam lựa chọn, trồng thử nghiệm các cây trồng năng lượng trên bãi thải của 3 khu vực khai thác khoáng sản tại 1,9 ha đất bãi thải titan ở Núi Pháo (Đại Từ, Thái Nguyên), 2 ha bãi thải mỏ than Hà Tu (Hạ Long, Quảng Ninh), 1,25 ha khu bãi thải khai thác quặng Bauxit (Bảo Lâm, Lâm Đồng).
Với khái niệm “cây trồng năng lượng”, dự án tiếp cận là những cây trồng sử dụng để sản xuất năng lượng sinh học trực tiếp hoặc các cây trồng làm thức ăn gia súc, tạo năng lượng gián tiếp thông qua sản xuất khí sinh học. Đồng thời, các bãi thải mỏ hầu hết là những khu vực đất nghèo dinh dưỡng, đất trống nên cây năng lượng giúp mở rộng diện tích trồng cây, phủ xanh đất trống, chống xói mòn, tăng tính đa dạng sinh học, góp phần giảm thiểu khí nhà kính. Bên cạnh đó, việc sử dụng các loại cây trồng năng lượng góp phần nâng cao giá trị kinh tế khu vực bãi thải mỏ bằng cách tạo nguồn năng lượng mới như: Khí sinh học, nhiên liệu sinh học để chế biến nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện... và tạo nguồn thức ăn chủ động cho gia súc trong điều kiện đất canh tác có hạn.
Để đảm bảo mục tiêu đề ra, các chuyên gia dự án tiến hành lựa chọn các cây trồng có khả năng thích ứng cao với điều kiện khô hạn, thiếu dinh dưỡng, có khả năng tạo năng lượng. Theo đó, cây keo lai Autralia, cao lương, cỏ VA06, sắn trồng xen đậu xanh ở Thái Nguyên; cao lương trồng xen cốt khí và keo tai tượng ở Lâm Đồng; cây cọc rào, hướng dương, sắn ở Quảng Ninh.
Bà Nguyễn Thị Phương Mai, Tổng cục Môi trường cho biết: Qua trồng thử nghiệm, một số loại cây trồng đã thể hiện tiềm năng sinh trưởng như cỏ VA06, keo lai Australia, sắn kết hợp trồng xen với đậu xanh, keo trồng xen với cốt khí. Tuy nhiên, tốc độ sinh trưởng và năng suất sinh khối của các loại cây cũng dao động lớn, phụ thuộc vào tính chất vật lý, hóa học của khu vực bãi thải. Trong 3 khu vực trồng thử nghiệm, bãi thải tại Núi Pháo (Thái Nguyên) do đã được phủ đất mặt độ dày từ 0,5 - 1m nên thuận lợi cho quá trình sinh trưởng của cây trồng.
Cây cao lương thích hợp với khu đất thử nghiệm, có khả năng chịu hạn tốt, vụ đầu cho năng suất sinh khối khá cao, hàm lượng đường cao, có thể sử dụng làm nguyên liệu sản xuất ethanol. Tuy nhiên, cây sinh trưởng nhanh, đòi hỏi thâm canh cao, dễ bị sâu bệnh, tái sinh kém, chi phí trồng và chăm sóc cao. Đối với VA06, sinh trưởng phát triển rất tốt, khả năng chống chịu hạn cao, không sâu bệnh, ít công trồng và chăm sóc, năng suất cao gần bằng với cỏ trồng trên các loại đất bình thường; hàm lượng dinh dưỡng khá cao; có thể làm thức ăn cho gia súc, lấy phân để sản xuất khí biogas. Các giống sắn được trồng xen với đậu xanh tại Thái Nguyên sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh, đòi hỏi chăm sóc ít, tuy nhiên, sắn lại không phù hợp với đất sau khai thác bauxit tại Lâm Đồng, cây rụng lá, không thể sinh trưởng được. Keo lai Australia có khả năng sinh trưởng tốt, tăng trưởng nhanh, ít sâu bệnh, đòi hỏi chăm sóc ít. Tuy nhiên, để đảm bảo đánh giá toàn bộ chu kỳ sinh trưởng của cây cần có thời gian từ 7 - 8 năm. Riêng cây keo có thể sinh trưởng, phát triển khá dễ dàng trên các bãi thải đất xấu.
Để kết quả có khả năng nhân rộng, các chuyên gia kiến nghị cần có những nghiên cứu sâu nhằm đánh giá toàn diện về khả năng sinh trưởng của cây trồng và mức độ cải tạo, phục hồi các bãi thải mỏ sau khai thác, tiếp tục mở rộng các đối tượng nghiên cứu với các khu vực bãi thải mỏ khác.
Ông Andreas Bieber, Trưởng Bộ phận Bảo vệ tài nguyên đất và các vị trí ô nhiễm môi trường Bộ Môi trường, Bảo vệ thiên nhiên, Xây dựng và An toàn hạt nhân (Cộng hòa Liên bang Đức) cho rằng: Mục tiêu dự án là trồng thử nghiệm cây năng lượng trên đất mỏ để bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu; tăng cường năng lực cho Việt Nam trong bảo vệ môi trường trên đất mỏ; phục hồi chất lượng đất sau khai thác mỏ. Việc thí điểm trồng cây năng lượng tại các khu vực khai thác mỏ ở Thái Nguyên, Quảng Ninh, Lâm Đồng cho thấy trồng cây năng lượng tại các khu vực khai thác mỏ đã đóng cửa hoàn toàn khả thi và có thể đem lại tác động tích cực đến kinh tế và môi trường. Kết quả dự án là động lực cho đầu tư và nghiên cứu sâu hơn và tiếp tục được nhân rộng tại Việt Nam và các nước tương đồng. Với những kết quả đạt được, Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức có thể tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 dự án.