Năm 2020, áp lực về ô nhiễm này vẫn tiếp diễn, nhiều lúc, nhiều nơi đã vượt ngưỡng cho phép, bởi vậy, cần xây dựng cơ sở dữ liệu làm căn cứ khoa học phục vụ quản lý và quy hoạch phát triển để giảm bụi mịn.
Nhận dạng các nguồn bụi
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, các nguồn bụi mịn chính thường xuyên tác động đến chất lượng không khí tại các khu đô thị, đặc biệt là Hà Nội gồm bụi do giao thông, bụi đất lơ lửng, tro bay từ các bếp than tổ ong và đốt sinh khối, bụi có nguồn gốc từ chất thải...
Nồng độ bụi ở Hà Nội gia tăng theo đà phát triển kinh tế và tốc độ tăng trưởng các phương tiện giao thông cơ giới. Theo thống kê, ở Hà Nội có khoảng 5,8 triệu xe máy, vài trăm nghìn ô tô. Năm 2019, số lượng phương tiện giao thông tăng 15% so với những năm trước, chưa kể số lượng phương tiện giao thông di chuyển qua thành phố cũng rất lớn.
Những bất cập trong hệ thống giao thông và quy hoạch đô thị ở Hà Nội khiến ô nhiễm trầm trọng hơn. Xe máy chiếm 81% phương thức lưu thông so với 11% từ xe buýt, do đó lượng phát thải tính trên đầu người rất cao. Mặt đường chỉ chiếm 1,9% diện tích trong khu vực nội thành, vào loại thấp nhất thế giới. Mặt đường, vỉa hè không sạch, bụi đất do xe tốc lên quá nhiều, chiếm đến gần 20% khối lượng bụi mịn.
Khắp nơi bị bê-tông hóa, diện tích cây xanh, công viên, mặt nước bị thu hẹp. Dù đô thị đã mở rộng trong 20 năm gần đây, song 7 quận nội thành vẫn rất chật chội. Do đó, thiếu khoảng trống cho ô nhiễm phát tán. Ngoài ra, chất lượng phát thải xe vẫn còn thấp, hàm lượng benzene trong xăng, lưu huỳnh trong dầu và than còn tương đối cao, ảnh hưởng đáng kể đến ô nhiễm không khí.
Các hoạt động xây dựng các công trình mới, cải tạo, sửa chữa đường giao thông, ở Hà Nội hiện nay có hơn 1 nghìn công trình đang xây dựng, biến thành phố trở thành đại công trường gây ô nhiễm lớn. Cùng với hơn 60.000 hộ đang dùng bếp than tổ ong, đốt rác thải không đúng quy định ở ngoại thành Hà Nội cũng là một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí. Có thêm nguyên nhân đặc thù do đốt rơm rạ, yếu tố thời tiết và khí tượng gây ô nhiễm theo mùa nhưng tác hại là rất lớn.
Theo các chuyên gia môi trường, khí áp cao do các xoáy nghịch nén không khí xuống dưới khiến bụi và chất ô nhiễm tích tụ tại nơi phát thải, nồng độ bụi cứ thế tăng lên dù phát thải tại chỗ có thể giảm. Ô nhiễm càng trầm trọng hơn khi có lớp nghịch nhiệt sát mặt đất về ban đêm, hoặc gần mặt đất trong cả ngày lẫn đêm. Trong các lớp này, nhiệt độ không khí tăng lên theo độ cao, ngược với quy luật thông thường.
Nghịch nhiệt sát mặt đất bắt đầu xảy ra lúc chập tối trong thời tiết khô hanh, khói bụi do xe thải ra vào giờ cao điểm tăng vọt, sau nửa đêm mới giảm dần. Nghịch nhiệt gần mặt đất, ở độ cao khoảng 500 m, thường xảy ra trong thời tiết ẩm mùa đông, gây mù trời cả ngày. Các hiện tượng nghịch nhiệt thường xảy ra trong nhiều ngày liền, tạo nên các kịch bản ô nhiễm cực đoan.
Thống kê từ Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho thấy, năm 2019, liên tục các kịch bản ô nhiễm cực đoan xảy ra từ tháng 9. Gần đây nhất, nhiễm không khí ở Hà Nội có xu hướng gia tăng cả về số ngày và mức độ nghiêm trọng từ 7 - 14/12. Trong hầu hết các ngày, giá trị trung bình 24 giờ của thông số bụi PM2.5 tại các trạm quan trắc đều ở mức xấu, đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 11 - 14/12 chỉ số chất lượng không khí AQI ở mức rất xấu, trên 200 microgam/m3. Đầu năm 2020, nhiều ngày không khí Hà Nội và một số khu vực ở phía Bắc ô nhiễm nặng, xuất hiện nhiều điểm ở mức rất có hại cho sức khỏe với chỉ số AQI trên 200.
Cần xác định các thành phần trong bụi
Giáo sư Phạm Duy Hiển, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho rằng, những nguồn bụi khác nhau có thành phần nguyên tố khác nhau, nhờ đó có thể nhận dạng và phân định phần đóng góp của từng nguồn bụi tại nơi quan trắc. Việc này không hề đơn giản, vì nhiên liệu khi bị cháy phát ra cả hạt lẫn khí độc. Sau khi lan truyền trong khí quyển, khí độc lại chuyển hóa thành hạt.
Trong khói bụi từ xe có dạng hạt (hạt nguyên khai), bao gồm bụi đất do xe tốc lên từ đường, vỉa hè, sản phẩm bào mòn động cơ, phanh, lốp, và hạt thải ra từ ống xả rất độc do nhiên liệu không cháy hết. Ở dạng khí, có các oxit như NOx, CO, khí hữu cơ dễ bốc, trong đó đáng chú ý nhất là benzene vì dễ gây ung thư. Benzene được pha vào xăng để tăng chỉ số octane thay cho xăng pha chì trước đây. Xe còn thải ra khí SO2 từ các động cơ diesel chạy bằng dầu có chứa lưu huỳnh. NO2, SO2 và benzene có nồng độ rất cao trong nội thành, nhất là tại các giao lộ ở cửa ngõ thành phố.
Khi lan truyền trong khí quyển, các khí độc nói trên tương tác với nhiều khí khác do phản ứng quang hóa dưới ánh sáng mặt trời sẽ chuyển hóa thành hạt thứ cấp. Do đó, để xác định nguồn gốc bụi mịn cần xác lập định lượng về các thành phần nguyên tố và hợp chất chứa bên trong hạt bụi quan trắc.
Các trạm quan trắc tự động đang đầu tư xây dựng ồ ạt hiện nay không thể giải quyết được bài toán này, vì chỉ đo được lượng bụi mà không xác định được thành phần nguyên tố trong hạt bụi. Muốn nhận dạng các nguồn phát thải, các nhà khoa học phải phân tích hàng chục nguyên tố và hợp chất trong rất nhiều mẫu bụi mịn, sau đó xử lý kết quả phân tích bằng các mô hình thống kê để truy các nguồn phát, từ đó phân định phần đóng góp của từng nguồn tại địa điểm quan trắc.
Theo Giáo sư Phạm Duy Hiển, quan trắc môi trường, xây các trạm tự động chỉ đưa ra những thông tin giúp quản lý, chứ không trực tiếp làm giảm ô nhiễm. Bởi vậy, để giảm bụi, trước hết là trách nhiệm của các cơ quan quy hoạch và quản lý đô thị, cần kiểm kê các nguồn phát thải, từ đó xây dựng cơ sở dữ liệu, vừa làm căn cứ cho quy hoạch phát triển và quản lý đô thị, vừa làm đầu vào cho các mô hình phát tán trong nghiên cứu môi trường không khí. Ðây là lỗ hổng rất lớn, tồn tại từ nhiều năm nay khiến các nhà quản lý không biết dựa vào đâu để điều chỉnh chính sách, các nhà nghiên cứu thiếu công cụ để nghiên cứu và đưa ra thông tin đáng tin cậy.
Hà Nội đã có nhiều giải pháp, đầu tư nhiều tiền của để giảm ách tắc giao thông, nhưng hiện tượng kẹt xe hầu như không mấy cải thiện, ô nhiễm không khí vì thế tiếp tục gia tăng. Ðã đến lúc phải chấp nhận những giải pháp triệt để nhất, có thể tốn kém và gây xáo trộn lớn đến cuộc sống của người dân, nhưng lại làm thay đổi hẳn diện mạo Thủ đô theo hướng hiện đại như các nước tiên tiến.
Cụ thể, di dời một số trường đại học ra ngoại ô để xây các công viên; cắt giảm đăng ký, tiến đến cấm dần xe máy; mở rộng khu phố đi bộ quanh phố cổ, tại đây chỉ cho phép xe điện và (có thể) xe buýt; dẹp chiếm dụng vỉa hè, tiến hành tân trang vỉa hè; cấm hẳn bếp than tổ ong; nâng chất lượng xăng, dầu. Ngoài ra, cần rút ra những bài học đắt giá về quản lý để tránh ô nhiễm không khí cho những khu đô thị mới ở ngoại thành và các nơi khác trong cả nước. Người dân phải từ bỏ nhiều thói quen cũ, nhanh chóng thích nghi nếp sống trong một đô thị văn minh, hiện đại.
Việt Nam đang trong quá trình sửa đổi toàn diện Luật Bảo vệ môi trường 2014, một số chuyên gia kiến nghị như xây dựng thêm nhiều trạm quan trắc tự động nhưng không nên phân biệt trạm của trung ương hay địa phương mà nên thống nhất trong quản lý để đảm bảo chính xác về số liệu và tạo sự liên kết, thông suốt. cần làm rõ những đơn vị chức năng nào được phép quan trắc, chỉ Nhà nước hay cả tư nhân. Luật nên cập nhật vấn đề môi trường không khí trong nhà, tiếng ồn, cũng nên có chế tài về bảo vệ môi trường trong mai táng, hỏa táng vì chưa có cơ quan nào kiểm tra, giám sát.
Tổng cục Môi trường khuyến cáo, trước mắt, tại các thành phố lớn, người dân nên cập nhật thường xuyên tình trạng chất lượng không khí, trong những khoảng thời gian ô nhiễm không khí tăng cao nên sử dụng khẩu trang chống bụi và hạn chế các hoạt động ngoài trời, hạn chế mở cửa sổ.