Chị P. T. T, 30 tuổi, ngụ huyện Dầu Tiếng (Bình Dương), vào viện khám trong tình trạng đau đầu hành hạ kèm theo rối loạn chu kỳ kinh nguyệt kéo dài, ngực có dấu hiệu tiết sữa thường xuyên. Theo lời kể của chị T, tình trạng trên đã kéo dài một năm, chị đã điều trị nhiều nơi nhưng tình trạng không thuyên giảm, sức khỏe sa sút, ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt của chị rất nhiều.
Với phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn này, khối u được lấy ra một cách triệt để. Ảnh: BV |
Sau khi thăm khám kỹ lưỡng, cùng với kết quả xét nghiệm và hình chụp MRI 1.5 Tesla, các bác sĩ ngoại thần kinh bệnh viện đa khoa Xuyên Á xác định chị P. T. T có khối u vùng tuyến yên, kích thước khá lớn, đường kính hơn 2 cm. Việc phẫu thuật cắt bỏ khối u tuyến yên là cần thiết và tiến hành càng sớm càng tốt vì những khối u lớn có thể gây chèn ép dây thần kinh thị giác, dẫn tới mờ mắt, có khi mù hoàn toàn. Ngoài ra, bệnh nhân còn bị rối loạn nội tiết, rối loạn kinh nguyệt, tăng tiết sữa, vô sinh...
Khối u quá lớn có thể gây tăng áp lực nội sọ chèn ép sâu trong não, gây nguy hiểm với các biểu hiện đau đầu, nôn, hôn mê... thậm chí có thể gây tử vong.
Qua tư vấn, các bác sĩ ngoại thần kinh và bệnh nhân đã thống nhất lựa chọn phương pháp phẫu thuật nội soi cắt bỏ khối u tuyến yên qua xoang bướm. Theo các bác sĩ, đây là phương pháp phẫu thuật tối ưu nhất trong trường hợp này. Phương pháp mổ nội soi u tuyến yên qua xoang bướm có nhiều ưu điểm.
Thay vì phải mở sọ, vén não để đến tuyến yên như trước, các bác sĩ chỉ cần rạch một đường nhỏ ở cánh mũi để đi vào khoang mũi. Sau khi phá bỏ vách ngăn mũi và xoang bướm, với sự trợ giúp của kính hiển vi phẫu thuật, các bác sĩ cắt bỏ khối u bằng phương pháp nội soi. Thời gian thực hiện phẫu thuật chưa đầy 2 giờ đồng hồ. Hiện tại, tình trạng bệnh nhân ổn định và hồi phục tốt.
Với phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn này, khối u được lấy ra một cách triệt để, ít chảy máu, ít tổn thương. Thời gian thực hiện ngắn hơn, không để lại sẹo, các cơn đau hậu phẫu sẽ giảm đi đáng kể. Thời gian phục hồi và nằm viện cũng ngắn hơn rất nhiều so với phương pháp mở sọ. Đặc biệt, do không chạm vào các vùng não khác, kỹ thuật này gần như loại trừ khả năng biến chứng.