Mỗi người một điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, nhưng điểm chung của những thầy Then, nghệ nhân hát Then - những người “giữ hồn” của làn điệu Then ở Tuyên Quang, là mong muốn lưu giữ và truyền lại cho thế hệ mai sau báu vật của dân tộc mình.
Theo giới thiệu của cán bộ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang chúng tôi tìm đến huyện Chiêm Hóa - “cái nôi” của vùng hát Then.
Tiếp chúng tôi trong ngôi nhà sàn truyền thống của đồng bào dân tộc Tày, nghệ nhân Hà Thuấn (xã Tân An, huyện Chiêm Hóa) - người dân tộc Tày đầu tiên của tỉnh Tuyên Quang được Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam phong tặng Nghệ nhân văn hóa dân gian. Ông Thuấn bộc bạch: Gia đình ông Thuấn có 6 anh em, hầu hết đều hát thành thạo các làn điệu Then. Thậm chí trước khi mất, ông Hà Phan (anh trai ông Thuấn) chỉ có một ước nguyện: Ba tập bản thảo chép tay các sáng tác của ông được in thành sách để lưu lại cho thế hệ mai sau…
Anh Hoàng Tiến Các, dân tộc Tày, thôn Khuôn Khoai, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) - người hơn 30 năm qua miệt mài nghiên cứu, lưu giữ, phát triển những làn điệu hát Then và mở lớp truyền nghề miễn phí cho thế hệ trẻ. |
Ông Hà Thuấn tâm sự: “Đời không biết Then như chim không tiếng hót, như cây xanh không hoa lá, như cá không suối sông”. Rồi ông với lấy cây đàn tính, mềm mại lướt những ngón tay trên dây đàn và cất tiếng hát: “Ới la, bản noọng tón vằn xuân mùa mấư/ Vui đảy mùa bắp khẩu têm sang...” (Dịch: Bản em đón ngày xuân mùa mới/Vui được mùa ngô lúa đầy sân). Đây là bài “Bản em đón xuân” do nghệ nhân Hà Phan - anh trai của ông sáng tác.
Trong những năm qua, ông Thuấn đã miệt mài sáng tác được gần 60 bài hát Then theo điệu "tằng bốc" (đường cạn) và "tằng nặm" (đường nước) - đây là hai làn điệu chính hay nhất và độc đáo nhất của làn điệu Then. Ngoài ra, ông còn sưu tầm và chỉnh lý hàng chục bài Then cổ. Tuy nhiên, do các bài hát Then cổ được ghi bằng chữ Nho nên ông phải đã miệt mài học chữ Nho trong một thời gian dài để dịch và chuyển các bài Then cổ sang hát bằng tiếng Tày.
Chia tay ông Hà Thuấn, chúng tôi tìm đến nhà của anh Hoàng Tiến Các, dân tộc Tày, thôn Khuôn Khoai, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) - người hơn 30 năm qua miệt mài nghiên cứu, lưu giữ, phát triển những làn điệu hát Then truyền thống của dân tộc Tày và mở lớp truyền nghề miễn phí cho thế hệ trẻ.
Anh Các kể, từ khi 19 tuổi, anh đã “vượt rừng băng suối” sang Cao Bằng học hát Then, vì nghe các cụ thời bấy giờ kể ở Cao Bằng có nhiều nghệ nhân hát Then, cọi còn lưu giữ được những làn điệu cổ và có lối hát rất lôi cuốn người nghe. Sau nhiều tháng miệt mài học tập, anh đã gảy thạo đàn tính và hát khá tự nhiên các thể loại Then, cọi. Trong những năm theo nghề hát Then, anh tự mày mò cải biên những điệu hát cổ cho phù hợp, dễ hát hơn, để phổ biến rộng rãi cho nhiều người ở thôn, xã cùng hát. Những bài hát của anh được bà con hay hát như: “Yên Nguyên quê noọng”, “Anh là người đoàn viên tiên tiến”, “Quê em đổi mới”... Cũng theo anh Các, Then là “cuộc sống” của người Tày, bởi ngày xưa, Then là những khúc hát sử dụng trong việc cúng chữa bệnh, giải hạn, cầu mùa, cấp sắc… Tiếng Then còn làm cho con người quên ăn, chim ngừng hót, súc vật trên rừng phải ngẩn ngơ, gió ngừng thổi, mây ngừng bay.
Không những vậy, nhằm phổ biến rộng rãi loại hình hát then truyền thống của dân tộc tranh thủ những lúc nông nhàn anh Các lại tổ chức các lớp học dạy hát Then và đánh đàn tính cho thế hệ trẻ. Nhờ vậy, từ chỗ số người biết hát then ở xã Yên Nguyên chỉ đếm trên đầu ngón tay, đến nay số người biết hát lên đến gần 100 người, trong đó đa phần là thế hệ trẻ.
Một nghệ nhân nữa đang góp phần bảo tồn hát Then Tuyên Quang là ông Mông Trí Thức, dân tộc Tày, thôn Suối Khoáng, xã Phú Lâm, huyện Yên Sơn, người làm đàn tính có tiếng của tỉnh Tuyên Quang. Trong những năm qua, ông Thức đã sản xuất ra hàng trăm cây đàn tính cung cấp cho các đội văn nghệ, những thầy, nghệ nhân hát Then trong và ngoài tỉnh.
Ông Thức tự hào: Nói đến hát Then không thể nào không nhắc đến cây đàn tính. Then là điệu nhạc, là món quà của trời, đất đã trao gửi cho người Tày. Nhưng hát then mà không có đàn tính thì như mùa xuân không có hoa đào nở, như miếng cau thiếu lá trầu xanh. Ông Thức giải thích, đàn tính là dụng cụ để đệm khi hát Then, được làm từ ba loại vật liệu dễ tìm là quả bầu khô, cắt tiện thật khéo, gắn lên mặt cắt một mảnh ván mỏng; cần đàn làm bằng gỗ dâu hay thừng mục, vuốt thon một mặt phẳng và nối suôn qua bầu đàn, trên ngọn cần có thể khắc hình long, phượng, chim, thú; dây đàn được làm từ tơ tằm. Thêm ba núm chốt ngang qua khe máng đầu cần để mắc dây đàn và “con ngựa” trên mặt hộp, “con ngựa” có 3 khía đặt đỡ ba dây… Đàn tính được làm theo tỷ lệ, kích thước “Song căm tẩu, cẩu căm cản” (hai nắm bầu, chín nắm cần”; tiếng Tày “tẩu” là bầu đàn, “song căm” là đường kính hộp đàn bằng hai nắm tay, tương được 18 cm, cần đàn “cản đàn” cả phần thân cắm trong hộp đàn dài “cẩu căm” (chín nắm tay) tương đương 81 cm, còn lại ngọn cần đàn dài khoảng 20 cm để làm máng chốt dây và trang trí…
Bà Vũ Thị Bích Việt, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang, cho biết: Tỉnh Tuyên Quang hiện có 22 dân tộc thiểu số, cư trú lâu đời, có phong tục tập quán riêng, tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo, nhưng do nhiều nguyên nhân, bản sắc văn hóa các dân tộc đang bị mai một, do vậy, việc những thầy, nghệ nhân hát Then miệt mài sưu tầm, lưu giữ và truyền lại cho thế hệ mai sau “báu vật” của dân tộc mình là việc làm rất đáng trân trọng.
Bài và ảnh: Vũ Quang Đán
Bài cuối: Để làn điệu Then mãi ngân vang