Sinh viên làm thí nghiệm tại phòng thí nghiệm của trường.
|
Theo bảng xếp hạng QS Asia 2017 - 2018, Việt Nam có 5 đơn vị lọt vào top 400 trường đại học hàng đầu châu Á, lần lượt là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Cần Thơ và Trường Đại học Huế. Trong đó, Đại học Quốc gia Hà Nội duy trì xếp thứ hạng 139 như năm 2016. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được xếp thứ hạng 142, tăng 5 bậc so với năm 2016.
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội tăng hạng và được xếp vào nhóm 291 - 300 (năm 2016 trong nhóm 301 - 350). Trong khi đó, Trường Đại học Cần Thơ và Trường Đại học Huế bị tụt hạng so với năm 2016. Cụ thể, Trường Đại học Cần Thơ xếp nhóm 301 - 350 (năm 2016 trong nhóm 251 - 300), Trường Đại học Huế xếp nhóm 351 - 400 (năm 2016 trong nhóm 301 - 350).
Với vị trí này, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong top 1,2% trường đại học hàng đầu châu Á (trong tổng số 11.900 trường đại học toàn khu vực). Đặc biệt, từ năm 2013 đến nay Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tăng 159 hạng trong bảng xếp hạng 400 trường đại học hàng đầu châu Á; đứng số 1 tại Việt Nam ở hai tiêu chí quan trọng là Danh tiếng học thuật và Danh tiếng với nhà tuyển dụng.
Theo đánh giá của lãnh đạo Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, đây là thành công bước đầu của đơn vị này khi chính thức tham gia “cuộc chơi xếp hạng”, khẳng định uy tín và chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học của mình trong khu vực và trên thế giới.
Với sứ mạng là nòng cốt trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học dựa trên sự cải tiến liên tục. Trong đó, Chiến lược phát triển giai đoạn 2016 - 2020, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Chất lượng giáo dục đại học là ưu tiên hàng đầu và được lồng ghép xuyên suốt trong mọi hoạt động của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Mục tiêu đến năm 2020 trở thành một trong 100 trường đại học hàng đầu châu Á.
Bảng xếp hạng QS Asia dựa trên 10 tiêu chí với trọng số khác nhau, gồm: Danh tiếng về học thuật (30%); khảo sát ý kiến nhà tuyển dụng về chất lượng sinh viên tốt nghiệp (20%); tỷ lệ giảng viên/sinh viên (15%); tỷ lệ đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ (5%); tỷ số bài báo xuất bản trên giảng viên (10%); trích dẫn mỗi bài nghiên cứu được công bố (10%); tỷ lệ giảng viên quốc tế (2,5%); tỷ lệ sinh viên quốc tế (2,5%); trao đổi sinh viên trong nước (2,5%); trao đổi sinh viên với nước ngoài (2,5%).
Các tiêu chí này được đánh giá qua việc khảo sát ý kiến đồng nghiệp về danh tiếng học thuật của trường đại học và khảo sát nhà tuyển dụng về chất lượng đào tạo, chất lượng sinh viên tốt nghiệp của trường do Tổ chức QS tiến hành. Ngoài ra, Tổ chức QS còn sử dụng dữ liệu của bên thứ ba để tính số lượng ấn phẩm nghiên cứu như các bài báo được xuất bản trên mỗi giảng viên và số lượng trích dẫn của mỗi bài nghiên cứu được công bố. Các dữ liệu khác chủ yếu do chính trường đại học cung cấp hoặc Tổ chức QS lấy dữ liệu thông qua mục tài nguyên số và dữ liệu trên website của trường đại học.