Cuộc chiến tranh nhằm giành quyền kiểm soát kênh đào Suez năm 1956 đã từng đưa thế giới tới bờ vực của Chiến tranh Thế giới thứ Ba và rốt cuộc trở thành một thảm bại của Pháp và Anh, những nước muốn khôi phục lại ánh hào quang một thời với tư cách là ông chủ thực dân. Sau này, các nước phương Tây muốn hạ thấp ý nghĩa của cuộc chiến này nên chỉ gọi là "Cuộc khủng hoảng Suez".
Kỳ I: Ý nghĩa chiến lược của kênh đào Suez
Kỹ sư Ferdinand de Lesseps, người chủ trì việc xây dựng kênh đào Suez.
|
Kênh đào Suez bắt đầu từ thành phố cảng Port Said bên bờ Địa Trung Hải và kết thúc ở thành phố Suez bên bờ Hồng Hải nên con kênh được mang tên Suez. Khoảng 500.000 người đã tới an cư tại các thành phố ven kênh kể từ khi kênh đào được xây dựng. Kênh đào Suez cũng là đường ranh giới giữa đất liền của Ai Cập và bán đảo Sinai, vì vậy cũng là ranh giới giữa châu Phi và châu Á.
Thật ra, từ 1400 năm trước Công Nguyên, các Pharaon Sethos I và Ramsis II đã bắt đầu với việc lên kế hoạch và xây dựng con kênh đào này. Do gặp nhiều khó khăn nên việc xây dựng kênh đào kéo dài tới năm 500 trước Công Nguyên vẫn chưa hoàn thành và bị bỏ dở. Vài trăm năm sau, con kênh dang dở bị cát phủ kín. Nhưng ý tưởng về con kênh nối hai biển này vẫn không mất đi và chỉ chờ dịp lại được đưa ra.
Ý nghĩa chiến lược lớn của một con đường thủy nhân tạo nối Địa Trung Hải với Hồng Hải đã được nhà ngoại giao và kỹ sư người Pháp Ferdinand de Lesseps khơi lại từ thế kỷ 19, vì con đường hàng hải từ châu Âu sang châu Á sẽ không phải đi vòng qua Mũi Hảo Vọng ở châu Phi nên có thể rút ngắn quãng đường tới 4.000 km.
Một công trình nghiên cứu được tiến hành năm 1846 cho thấy, mực nước giữa Địa Trung Hải và Hồng Hải không chênh nhau là bao nên đây là phương án khả thi. Sau khi Phó vương Muhammed Said lên nắm quyền, Lesseps đã hăng hái trình bày kế hoạch của mình và nhấn mạnh vai trò và ý nghĩa của Ai Cập, nếu kênh đào được xây dựng. Kỹ sư Lesseps quen biết gia đình Phó vương Said từ khi ông còn nhỏ và từng dạy ông cưỡi ngựa, nên hai người rất thân nhau. Vì vậy, năm 1856, Lesseps đã nhận được giấy phép xây dựng kênh đào. Dưới sự chủ trì của công ty Kênh đào Suez Pháp, việc xây dựng con kênh dài 163 km đã được tiến hành và vượt qua nhiều khó khăn trắc trở, để mở một con đường thủy đi qua sa mạc. Việc xây dựng kênh đào tốn phí 19 triệu bảng Anh với sự tham gia của 1,5 triệu người, trong đó 125.000 người đã bị chết trong quá trình xây dựng. Sau gần 10 năm xây dựng, kênh đào Suez được khai trương và mở cửa cho tàu bè qua lại vào ngày 16/11/1869.
Quang cảnh xây dựng kênh đào. |
Sau khi được đưa vào hoạt động, con đường thủy này được Companie Universelle du Canal Maritime de Suez quản lý và vận hành và trong Hiệp định năm 1888 trở thành một nhượng địa trong thời gian 99 năm. Thông qua Phó vương Muhammed Said, Ai Cập có cổ phần lớn trong công ty này, nhưng người kế nhiệm của ông là Ismail Pascha đã phải bán cổ phần của Ai Cập cho người Anh do món nợ khổng lồ của quốc gia, vì vậy trên thực tế, Ai Cập trở thành một nhà nước do Pháp bảo hộ. Kể cả sau khi giành lại được sự tự chủ, công ty này vẫn do người Pháp và người Anh chi phối và như vậy cả kênh đào với hai bên bờ kênh rộng đều nằm trong tay người nước ngoài. Vai trò chiến lược của nó đã tiếp tục gia tăng với việc dầu mỏ trên bán đảo Arập ngày càng có ý nghĩa sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai.
Đầu những năm 1950, người ta bắt đầu thảo luận về tương lai của kênh đào Suez sau khi thời gian tô nhượng kết thúc. Công ty này theo đuổi một giải pháp không có Ai Cập, vì cho rằng nước này không thể tự quản lý một công việc làm ăn như vậy. Đằng sau lập trường có tư tưởng đế quốc là nỗi lo tiếp tục mất đi ảnh hưởng trên thế giới. Sau năm 1945, người ta càng nhận thấy rõ rằng nước Anh không có đủ tài nguyên để củng cố đế chế của mình. Trước bối cảnh phong trào dân tộc chủ nghĩa đang phát triển trong "Thế giới thứ Ba", Ai Cập ngày càng trở nên có ý nghĩa, vì trong khu vực kênh đào Suez, người Anh có một căn cứ quân sự trên cơ sở một hiệp ước được thương lượng năm 1936 với khoảng 80.000 binh sĩ Anh đóng bên kênh đào Suez.
Khi chính phủ Ai Cập dưới triều Vua Faruk bị các sĩ quan đảo chính và lật đổ ngày 23/7/1952, mối quan hệ giữa Ai Cập và Anh ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Trong khi giới lãnh đạo cho tới nay duy trì mối quan hệ hợp tác với các cường quốc châu Âu, chính phủ mới của Ai Cập lại theo đuổi một đường lối dân tộc chủ nghĩa, liên Arập và chống Ixraen, xích lại gần hơn với khối các nước XHCN. Việc thay đổi đường lối này một mặt làm căng thẳng hơn những xung đột khu vực ở Trung Cận Đông, vì Ixraen cảm thấy bị thách thức thông qua một hiệp ước cung cấp vũ khí mà Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser ký với Tiệp Khắc.
Mặt khác, phương Tây lại cho rằng Ai Cập đang bị cộng sản hóa. Hơn nữa, một cuộc xung đột giữa Ai Cập với Anh và Pháp đang đe dọa, vì những nước này khăng khăng bám lấy quyền kiểm soát kênh đào Suez và bác bỏ đòi hỏi của Nasser muốn có một giải pháp quốc gia cho con đường thủy này, một điều mà nhà sử học nổi tiếng Georges - Henri Soutou ở trường Đại học Sorbonne, Pari (Pháp) giải thích: "Bên cạnh lợi ích kinh tế, kênh đào này là một biểu tượng cho sự diện diện của Anh và Pháp tại Trung Cận Đông và cho toàn bộ thời đại đế quốc". Những căng thẳng tạm thời được dẹp bỏ thông qua Hiệp định Suez ngày 19/10/1954, trong đó Anh cam kết rút lực lượng vũ trang của mình ra khỏi khu vực kênh đào trong vòng 20 tháng. Đổi lại, Ai Cập bảo đảm duy trì căn cứ quân sự và để cho người Anh sử dụng trong trường hợp xảy ra chiến tranh, đồng thời họ công nhận quy chế quốc tế của khu vực này. Tháng 6/1956, quân đội Anh rút khỏi khu vực kênh đào Suez, mọi việc xem chừng hướng tới một giải pháp hòa bình.
Vũ Long (Tổng hợp theo báo chí Đức)
Đón đọc kỳ 2: Con đường tới khủng hoảng