Cách đây hơn 40 năm, Ấn Độ đã giành chiến thắng trong cuộc chiến với Pakistan nhờ một phần có sự hỗ trợ ngoại giao mạnh mẽ từ Nga. Nhưng rất ít người biết rằng Nga đã ngăn chặn một cuộc tấn công của liên quân Mỹ-Anh nhằm vào Ấn Độ.
Một binh sĩ Ấn Độ đấu súng với phía Pakistan ở một ngôi làng cách Dongarpara 1,5 km về phía đông biên giới Pakistan ngày 7/12/1971. |
Cuộc chiến Ấn Độ - Pakistan năm 1971Sau khi tách khỏi Ấn Độ thành quốc gia độc lập tháng 8/1947 theo kế hoạch Mountbatten của Anh, Pakistan tìm cách thôn tính tiểu vương quốc Jammu và Kashmir (nơi có 70% dân số theo đạo Hồi), phế truất Maharaja của Jammu và Hari Singh của Kashmir (người theo Ấn Độ giáo). Sau khi tiến hành các hoạt động xâm nhập, lợi dụng tôn giáo để xúi giục những người theo đạo Hồi nổi dậy chống chính quyền, ngày 20/10/1947, Pakistan đưa quân đánh chiếm Jammu và Kashmir. Maharaja và Hari Singh chạy sang Delhi (Ấn Độ) yêu cầu giúp đỡ và ký hiệp ước sáp nhập Kashmir vào Ấn Độ (20/10/1947). Trên cơ sở đó, Ấn Độ cho quân nhảy dù xuống Kashmir, nhanh chóng giành quyền kiểm soát, đẩy lùi quân Pakistan.
Tháng 12/1947, quân đội Pakistan cùng với lực lượng nổi dậy Hồi giáo tiếp tục tấn công vào khu vực tây nam Kashmir; tới tháng 5/1948 mở rộng chiến sự lên phía bắc và tây bắc Kashmir. Nhờ vai trò trung gian hòa giải của Liên Hợp Quốc, ngày 31/12/1948, hai bên đã đạt được thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, vấn đề Jammu và Kashmir vẫn là nguyên nhân làm bùng nổ chiến tranh giữa hai nước vào những năm 1965 và năm 1971.
Cuộc chiến xảy ra giữa Ấn Độ và Pakistan vào tháng 12/1971, bắt nguồn từ cuộc bầu cử Quốc hội Pakistan vào năm 1970 sau khi đảng Awami do giáo chủ Mujibur Rahman, đại diện cho cộng đồng người Hồi giáo tại vùng lãnh thổ đông Pakistan (quốc gia Bangladesh hiện nay) giành thắng lợi. Thế nhưng, Thủ tướng Pakistan khi đó, Zulfikar Ali Bhutto từ chối trao chiếc ghế thủ tướng lại cho Giáo chủ Rahman, đồng thời ra lệnh cho quân đội thẳng tay đàn áp những người Hồi giáo có thiện cảm với đảng Awami.
Ngày 25/3/1971, quân đội Pakistan chiếm giữ thành phố Dhaka (thủ đô Bangladesh hiện nay) ở vùng lãnh thổ đông Pakistan, bắt giữ Giáo chủ Rahman và ra lệnh giải tán đảng Awami. Thế nhưng hành động này của chính quyền Pakistan đã gây bất bình trong nội bộ quân đội để đến ngày 27/3/1971, Đại tá Ziaur Rahman quyết định ly khai khỏi quân đội Pakistan và tuyên bố sẽ thành lập quốc gia Bangladesh.
Hành động này của Đại tá Rahman không những nhận được sự hậu thuẫn của Ấn Độ mà cả của Liên Xô. Riêng Mỹ lại phản ứng gay gắt về việc thành lập một quốc gia mới ở đông Pakistan chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Liên Xô. Vì vậy, Tổng thống Mỹ Richard Nixon quyết định tăng cường viện trợ quân sự cho Pakistan để giải thể chính quyền mới ở vùng lãnh thổ đông Pakistan bằng vũ lực.
Hậu quả là bạo lực tăng cao ở đông Pakistan, hàng triệu người đông Pakistan phải chạy tị nạn vào lãnh thổ Ấn Độ ở các bang tây Bengal, Bihar, Assam, Meghalaya và Tipura nhằm tránh các vụ thảm sát gây ra bởi quân đội Pakistan. Ở phía tây Pakistan, chính quyền của Thủ tướng Bhutto, được sự hậu thuẫn cả về mặt ngoại giao và quân sự của Mỹ, lăm le tấn công Ấn Độ.
Trước tình hình căng thẳng của một cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan không thể nào tránh khỏi, Thủ tướng Ấn Độ, bà Indira Gandhi, có chuyến công du đến Moskva ngày 9/8/1971 để ký kết hơn 20 hiệp định hợp tác cả về kinh tế và quân sự với Liên Xô. Hành động này của Thủ tướng Gandhi khiến Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger cho rằng Liên Xô muốn thông qua Ấn Độ để bành trướng thế lực ở Nam Á. Vì thế, Mỹ quyết định “bật đèn xanh” để Pakistan tấn công Ấn Độ.
Từ tháng 10/1971, Mỹ tăng cường các chuyến bay vận chuyển khí tài quân sự cho Pakistan. Từ các căn cứ quân sự ở Nhật và Philippines, các máy bay vận tải quân sự C-130 và C-141 của Không quân Mỹ đêm ngày đáp xuống các sân bay Islamabad và Karachi của Pakistan, mang theo nhiều vũ khí. Hàng trăm cố vấn quân sự Mỹ cũng được đưa đến Pakistan dưới nhiều vỏ bọc khác nhau.
Khi công tác chuẩn bị đã cơ bản hoàn thành, ngày 3/12/1971, Pakistan tiến hành tấn công Ấn Độ, bắt đầu bằng các cuộc ném bom ồ ạt các căn cứ quân sự Ấn Độ dọc theo biên giới phía tây bắc. Ở phía đông, quân đội Pakistan cũng đồng loạt tấn công vào lãnh thổ Ấn Độ. Ấn Độ đánh trả một cách quyết liệt cả trên bộ, trên không và trên biển. Trên bộ, quân đội Ấn Độ với vũ khí, khí tài hiện đại do Liên Xô trang bị không những chống trả hữu hiệu các cuộc tấn công của Pakistan mà còn thọc sâu vào bên trong lãnh thổ Pakistan ở phía tây và chiếm giữ một vùng lãnh thổ rộng đến 4.000 km2.
Tàu sân bay INS Vikrant của Ấn Độ. |
Trên biển, Hải quân Ấn Độ làm chủ tình thế sau khi liên tiếp mở hai chiến dịch Trident và Pythus vừa tấn công đánh phá các tàu chiến Pakistan đồng thời phong tỏa việc tiếp tế bằng đường biển cho quân đội Pakistan ở vùng lãnh thổ phía đông. Trên không, các chiến đấu cơ MiG-21 (do Liên Xô sản xuất) và Mirage III (do Pháp sản xuất) của Không quân Ấn Độ đã thực hiện trên 4.000 phi vụ săn đuổi máy bay đối phương và yểm trợ các cuộc phản công trên bộ của quân đội Ấn Độ.
Cuộc chiến tranh năm 1971 được coi là chiến thắng “vang dội” nhất trong lịch sử hiện đại của Ấn Độ về mặt quân sự. Với tính chuyên nghiệp, sẵn sàng chiến đấu cao của binh lính dưới sự chỉ huy “sáng suốt” của vị tướng huyền thoại Sam Maneckshaw, cùng với các cuộc vận động hành lang ngoại giao tốt, đã tạo nên một chiến thắng huy hoàng. Sau hai tuần chiến đấu cả trên bộ, trên không và trên biển, gần 100.000 binh sĩ Pakistan đã phải đầu hàng trước sức mạnh vượt trội của phía Ấn Độ. Đây là sự đầu hàng có quân số đông nhất trong chiến tranh kể từ năm 1943 với sự đầu hàng của Thống chế quân đội Đức Quốc xã Paulus tại Stalingrad (Liên Xô). Tuy nhiên, chiến thắng này không chỉ đến nhờ quyền phủ quyết của Moskva tại Liên Hợp Quốc còn có tầm nhìn xa của New Delhi trong việc ký một hiệp ước an ninh với Nga năm 1970.
Trong khi đó, đối thủ của Ấn Độ cũng không phải là yếu. Quân đội Pakistan đã được hỗ trợ bởi các máy bay chiến đấu đến từ Jordan, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và Pháp. Về mặt tinh thần và trang thiết bị quân sự thì được sự hậu thuẫn của Mỹ, Trung Quốc và Anh. Bên cạnh đó, Các tiểu Vương quốc Arập thống nhất cũng đã điều một phi đội máy bay chiến đấu và Indonesia cũng đã cử ít nhất một tàu chiến để tham chiến cùng hải quân Pakistan. Tuy nhiên, sự can dự của Nga đã bẻ gãy các gọng kìm đang sẵn sàng “bóp nghẹt” Ấn Độ.
Siêu cường đối đầuNgày 10/12/1971, tình báo Ấn Độ đã thu thập được thông tin tình báo cho biết, được lệnh của Tổng thống Nixon, Hải quân Mỹ đã điều tàu sân bay USS Enterprise mang theo 70 máy bay chiến đấu và ném bom, tàu tuần dương tên lửa dẫn đường USS King, tàu khu trục tên lửa dẫn đường USS Decatur, Parsons và Tartar Sam, tàu tấn công đổ bộ USS Tripoli cỡ lớn và một tàu ngầm hạt nhân cơ động đến Ấn Độ Dương.
Hạm đội tàu chiến Mỹ USS Enterprise tiến vào vịnh Bengal của Ấn Độ. |
Đến ngày 11/12/1971, lực lượng trên của Mỹ đã có mặt ở ngoài khơi vịnh Bengal của Ấn Độ. Các chiến đấu cơ phản lực xuất phát từ tàu sân bay Enterprise thực hiện các phi vụ áp sát lãnh hải và lãnh thổ Ấn Độ để gây áp lực.