Pháo đài lửa Mareth - Kỳ 2: Người hùng “răng thỏ”

Lòng can đảm của người chỉ huy là điều mà binh sĩ của Seagrim không bao giờ quên được về ông. Người thuộc cấp Albert Snowden đánh giá “ông ấy là một con người vĩ đại trên mọi bình diện. Vóc dáng không quá cao to của ông toát ra vẻ uy lực của một con mãnh sư. Seagrim không bao giờ đưa quân đến những nơi mà ông sẽ không tự mình đặt chân đến”.


 

Trung tá Derek Seagrim (phải) ở Jerusalem trong những năm 1930.

 

Vào khoảng thời gian Tiểu đoàn số 7 Green Howards tham gia cuộc tiến quân qua sa mạc Libi, tinh thần ấy gần như lan tỏa khắp đơn vị. Đối với Clive Brocklesby, một hạ sĩ quan ở tổng hành dinh, thì Seagrim là chỉ huy được các binh sĩ của mình kính trọng và tôn sùng đến mức họ sẵn sàng đi theo ông đến bất cứ nơi nào. Đó là một sợi dây gắn kết vô hình hết sức đặc biệt, được thử thách thực sự trong một đêm chiến đấu nhọc nhằn mà một sĩ quan nói là trải nghiệm đáng sợ nhất của ông trong cuộc chiến này.


Tuy nhiên, trước khi cuộc tấn công có thể bắt đầu vào ngày 20/3/1943, Seagrim cần có những bước chuẩn bị, trong đó có việc đánh chiếm một khu vực tiền đồn nằm sâu trong vùng chiến sự khoảng 5 km. Sử dụng các nhóm tác chiến nhỏ tinh nhuệ, Tiểu đoàn Green Howards từng bước tiến quân trong ba đêm liên tiếp, dù gặp trở ngại do mưa lớn và trận địa mìn rải rác của địch, cho đến khi đến được một vị trí để thăm dò các chốt phòng thủ của đối phương và xác định một đầu cầu giúp họ vượt sông cạn Zigzaou.


 

Một trong nhiều công trình phòng thủ trên tuyến Mareth.

Bên kia chiến tuyến, Sư đoàn 50 phải đối mặt với các đơn vị thuộc ba sư đoàn tân binh của Italia, gồm Young Fascist, Trieste và Spezia, cũng như một đơn vị lão luyện của Đức. Tất cả được triển khai tại những điểm phòng thủ được bố trí công phu và liên kết chặt chẽ với nhau. Các kỹ sư Pháp coi phòng tuyến này là gần như “bất khả xâm phạm”, kể cả trong trường hợp không có công sự Bastion.


Bất chấp nhiều ngày bị oanh kích liên tiếp bằng pháo binh và không quân, sức kháng cự nơi đây vẫn được dự báo sẽ hết sức dữ dội và gây tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, tướng Montgomery không nghĩ vậy. Ông cho rằng, nếu cử một lực lượng khá lớn di chuyển sang bên trái, vòng qua đồi Matmata để đánh thọc sườn đối phương, thì chắc chắn kẻ thù sẽ bị tiêu diệt. “Nếu mọi binh sĩ đều làm đúng nhiệm vụ của mình thì không gì có thể ngăn nổi quân đội Anh”, ông quả quyết.


Khẩu hiệu trong cuộc chiến này là “tiến về Tuynít”, nhưng trước đó phải giải được bài toán khó Bastion. Với những boong-ke bê tông, hàng rào thép gai, địa lôi, và hệ thống phòng thủ chiến hào hiện đại, pháo đài này tạo ra một thách thức giống như chiến tranh trong thế kỷ 19. Để vượt qua được chướng ngại vật kiểu “cổ điển” này, Seagrim, cùng các đơn vị thuộc Lữ đoàn Khinh bộ binh Durham, đã phải áp dụng những chiến thuật “lỗi thời”, tức các đội đột kích do những người cầm thang leo tường đi đầu. Do chiến thuật này thiếu tính bất ngờ cộng với những ụ súng máy của đối phương có tầm quan sát tốt nên chỉ riêng việc tiến đến được vị trí của pháo đài cũng đã là một thành công, chưa nói đến việc chọc thủng và kiểm soát công sự này.


Có lẽ bởi vậy mà Seagrim quyết định chỉ huy ở tuyến đầu, bên cạnh các nhóm của Đại đội B, đơn vị sẽ đi tiên phong trong cuộc tấn công của Tiểu đoàn số 7 Green Howards. Một giờ trước đó, sau khi làm một hơi đồ uống nóng pha rượu mạnh, Trung đội phó W. Bourne dẫn quân của ông tiến đến rìa một bãi mìn, nơi một rải băng màu trắng đánh dấu vị trí xuất phát của cuộc tấn công. Một số binh sĩ trong đại đội của ông mang theo thang nhẹ để vượt qua các hào chống tăng, và khi đứng ở đó đợi xuất kích, ông nhận ra một bóng người nhỏ bé quen thuộc đứng yên lặng trong hàng đầu tiên. Đó là Seagrim “Thỏ”.


“Vẫn còn khoảng 15-20 phút trước khi giờ G điểm, Trung tá Seagrim lặng lẽ di chuyển đến bên những binh sĩ trong nhóm tôi để dặn dò. Lòng tự tin của ông ấy khiến chúng tôi cảm thấy thoải mái và bình tĩnh hơn”. Trong những thời khắc cuối cùng, quân địch đã bắt đầu đáp trả. Pháo hạng nặng nã dồn dập trên mặt đất giữa lúc các đại đội phía sau tiến đến vị trí tập kết để sắp chỉnh đội hình. Chỉ còn chưa đầy 500 m nữa là Tiểu đoàn số 7 tiếp cận mục tiêu đầu tiên của họ, đó là hào chống tăng tiếp giáp với công sự Bastion. Trong những điều kiện bình thường, một binh sĩ dù mang trên mình đầy đủ quân trang cũng chỉ mất vài giây để băng qua khu vực này, nhưng trong buổi đêm hôm đó thì chẳng có gì là bình thường cả.


Bầu trời đêm sáng rực ánh lửa đạn và dưới ánh trăng rằm chiếu rọi khiến đường tấn công dường như bị lộ ra một cách đáng sợ. Tuy nhiên, khi giờ G điểm, Trung tá Seagrim mới dẫn quân tập kích Bastion. Giai đoạn đầu tiên của chiến dịch đã diễn ra hết sức thuận lợi, hơn cả mong đợi của những người lạc quan nhất. Song, một tình huống hỗn loạn bất ngờ xảy ra. Ngay khi chiếc thang đầu tiên được bắc lên bức tường dựng đứng thì một cơn mưa đạn tới tấp ập đến. Đạn cối, đạn pháo và súng máy từ xa nã liên tiếp đoạn hào hẹp nhung nhúc binh lính này, khiến tất cả các đại đội phải co cụm lại.


Đối với Thiếu tá George Pendred thuộc Đại đội A, đây dường như là “khoảnh khắc khủng khiếp nhất. Ánh trăng rằm sáng tỏ như ban ngày và trước mặt chúng tôi là bức tường tựa hồ một vách đá (cao khoảng 2,5-3 m) trong khi đạn súng cối đang nổ rát. Cảm giác đó thật đáng sợ”.

 

Huy Lê

 

Đón đọc kỳ 3: “Cỗ máy xay thịt”

Pháo đài lửa Mareth-Kỳ 1: Giờ G sắp điểm
Pháo đài lửa Mareth-Kỳ 1: Giờ G sắp điểm

Mareth là hệ thống các công sự trên sa mạc được Pháp xây dựng trước Thế chiến thứ II. Nằm giữa các thị trấn Medenine và Gabes ở miền nam Tuynidi, công trình này được thiết kế để đương đầu với các cuộc tấn công của người Italia ở Libi...

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN