Ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước) khẳng định, chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam là tất yếu, giúp ngành ngân hàng vượt lên thách thức của kỷ nguyên số bởi công nghệ đang được ứng dụng vào mọi mặt của cuộc sống. Ngân hàng số có thể coi là đích trong khi chuyển đổi số là một quá trình với nhiều cấp độ hướng tới ngân hàng số đích thực.
Ngân hàng số là ngân hàng có thể thực hiện hầu hết các giao dịch ngân hàng bằng hình thức trực tuyến thông qua Internet, khách hàng giao dịch không phải đến chi nhánh ngân hàng và giảm thiểu đến mức tối đa những thủ tục giấy tờ liên quan.
So với mô hình ngân hàng truyền thống hay ngân hàng điện tử thì ngân hàng số có nhiều điểm khác biệt. Nếu như ngân hàng điện tử (Internet banking) chỉ cho phép khách hàng thực hiện một số tính năng như: thanh toán, chuyển tiền hay kiểm tra số dư tài khoản thì ngân hàng số có thể cung cấp tất cả các sản phẩm dịch vụ trực tuyến, cung cấp nhiều sản phẩm tài chính mới như: thanh toán di động, cho vay tiêu dùng tín chấp trên nền tảng công nghệ phân tích dữ liệu tiên tiến, sản phẩm bảo hiểm số, đầu tư số...
Việt Nam được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng, cơ hội cho phát triển ngân hàng số với 96,5 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ (người trưởng thành chiếm khoảng 70%), đồng thời 72% dân số sở hữu Smartphone, 130 triệu thuê bao di động, 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67% dân số).
Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Nhà nước, hiện nay, 94% ngân hàng bước đầu triển khai hoặc đang nghiên cứu, xây dựng chiến lược chuyển đổi số, trong đó 59% ngân hàng đã bắt đầu triển khai chuyển đổi số trên thực tế. 6% ngân hàng hiện chưa tính đến việc xây dựng một chiến lược chuyển đổi số tổng thể. Phần lớn các ngân hàng Việt Nam đã triển khai ngân hàng số ở cấp độ chuyển đổi về kênh giao tiếp và quy trình, chuyển đổi về nền tảng dữ liệu mới được nghiên cứu, triển khai tại một số ngân hàng tiên phong.
Chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực cho rằng, thực hiện ngân hàng số sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các ngân hàng như gia tăng doanh thu, tăng năng suất lao động và tiết kiệm chi phí, tăng khả năng tiếp cận thông tin, dữ liệu, kết nối, hợp tác, nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo khả năng phát triển đột phá so với đối thủ. Ngân hàng số là cơ hội có một không hai để ngân hàng đột phá, để nền kinh tế đột phá.
Ông Nghiêm Thanh Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, nhiều ngân hàng đã nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới, hiện đại vào hoạt động thanh toán, như: áp dụng xác thực vân tay, nhận diện khuôn mặt, sinh trắc, sử dụng QR Code, Tokenization, thanh toán phi tiếp xúc, công nghệ mPOS... Toàn thị trường có hơn 50.000 điểm chấp nhận thanh toán QR Code...
Đã có nhiều ngân hàng xem ngân hàng số là trọng tâm phát triển thời gian qua như Ngân hàng Thương mại cổ phần Tiên Phong (TPBank) ra mắt ứng dụng LiveBank, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) ra mắt ngân hàng số Yolo sau mô hình Timo, Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông (OCB) ra mắt ngân hàng số OCB OMNI, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) chú trọng phát triển trải nghiệm của khách hàng trên ngân hàng trực tuyến,…
Ông Phạm Anh Tuấn, Ủy viên Hội đồng quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho biết ngân hàng này đã bắt đầu triển khai dự án ngân hàng số từ tháng 4/2019 và xác định ngân hàng số sẽ đáp ứng tất cả những điều đặc biệt cho khách hàng.
Theo ông Phạm Anh Tuấn, Vietcombank xác định 3 mức độ trưởng thành của ngân hàng số là 1.0, 2.0 và 3.0. Theo đó, định hướng đến năm 2025, Vietcombank sẽ tiệm cận 3 chấm, năm 2030 sẽ là ngân hàng số 3.0 thực thụ.
Tuy nhiên, phát triển ngân hàng số ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn như thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng thông qua các kênh dịch vụ truyền thống của một bộ phận khách hàng.
Bên cạnh đó, khung pháp lý hiện nay chưa đầy đủ và thường đi sau sự phát triển quá nhanh của công nghệ. Sự cạnh tranh từ các tổ chức phi tài chính như fintech (công nghệ trong tài chính) và những công ty công nghệ lớn (bigtech) cũng sẽ tạo áp lực tới ngân hàng số.
Ngoài ra, các thách thức khác như khả năng bảo mật của hệ thống, an ninh mạng, bảo mật thông tin cá nhân vẫn chưa được coi trọng bởi chính người dùng. Do đó, việc phát triển ngân hàng số trong khi không tăng cường các biện pháp quản lý rủi ro an ninh mạng, năng lực tổ chức quản lý còn hạn chế, chưa am hiểu đầy đủ về đặc tính của mô hình hoạt động mới sẽ tăng nguy cơ mất an toàn cho khách hàng, ngân hàng và hệ thống.
Các chuyên gia kinh tế cho rằng để phát triển ngân hàng số cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển ngân hàng số, chú trọng bảo vệ quyền lợi và lợi ích các bên tham gia thị trường; trong đó, ưu tiên việc xem xét các quy định cho phép định danh khách hàng điện tử. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện và áp dụng các cơ chế khuyến khích sự phát triển của công nghệ tài chính.
Theo ông Hồ Phan Hải Triều, Phó Tổng giám đốc phụ trách Khối Ngân hàng số của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thương tín (Vietbank) thì điểm then chốt quyết định sự thành công của một ngân hàng số là tầm nhìn và định hướng nhất quán của lãnh đạo.
“Thực tế nhiều ngân hàng đã và đang triển khai ngân hàng số nhưng không quyết liệt từ định hướng chiến lược nên chưa thành công. Để đạt được kết quả, ban lãnh đạo cần tập trung phân bổ nguồn lực để triển khai mạnh mẽ theo tốc độ thay đổi công nghệ và nhu cầu của khách hàng”, ông Hồ Phan Hải Triều nói.
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Kim Anh cho biết, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hỗ trợ chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng thông qua các định hướng, hoàn thiện cơ chế chính sách trong lĩnh vực ngân hàng thích ứng với cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, tạo thuận lợi thúc đẩy mô hình kinh doanh, quản trị điều hành trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng bứt phá, đổi mới sáng tạo nhưng vẫn chú trọng tới đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hạn chế rủi ro thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã tập trung hoàn thiện, ban hành cơ chế chính sách, xây dựng hành lang pháp lý trong hoạt động ngân hàng thích ứng với xu hướng số hóa dịch vụ và ứng dựng mạnh mẽ công nghệ số, hợp tác mở như: mô hình ngân hàng đại lý (agent banking); nhận biết ngân hàng điện tử (e-KYC); tiền điện tử (e-money), xây dựng và triển khai tiêu chuẩn thống nhất về thanh toán QR Code, tiêu chuẩn thẻ chíp nội địa…đảm bảo tính tương thích, liên thông.