Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương đề xuất “trả lại” kế hoạch là không thực hiện nghiêm chỉ tiêu pháp lệnh của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ cũng như có thể làm ảnh hưởng đến mục tiêu của Kế hoạch 5 năm, Chiến lược 10 năm được Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XIII thông qua.
Hiện tại, Luật Đầu tư công và các Nghị định hướng dẫn mới có chế tài đối với trường hợp không giải ngân hết kế hoạch, quy định cắt giảm kế hoạch đầu tư công trung hạn tương ứng với số vốn kế hoạch hằng năm của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương không giải ngân hết và không được cấp có thẩm quyền cho phép kéo dài sang năm sau. Do đó, để tăng cường kỷ luật, kỷ cương đầu tư công, nên chăng cần phải bổ sung chế tài đối với các trường hợp trả lại kế hoạch hằng năm.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, từ năm 2020 đến nay đã xuất hiện tình trạng bộ, cơ quan Trung ương và địa phương có văn bản đề nghị “trả lại” kế hoạch đầu tư vốn ngân sách Trung ương, nhất là vốn ODA do không giải ngân được và xu hướng này ngày càng gia tăng (năm 2020 là trên 14 nghìn tỷ đồng, năm 2021 là trên 20 nghìn tỷ đồng).
Theo quy định hiện hành, không có khái niệm “trả lại” kế hoạch vốn. Thực chất đây là quy trình điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư công hằng năm theo quy định của Luật Đầu tư công; trong đó, những bộ, cơ quan Trung ương, địa phương có điều chỉnh giảm kế hoạch vốn được quen gọi là “trả lại” kế hoạch vốn.
Tuy nhiên, để thực hiện được việc điều chỉnh kế hoạch vốn thì phải đáp ứng điều kiện có nơi tăng phải có nơi giảm để không làm thay đổi tổng mức vốn kế hoạch hằng năm đã được Quốc hội thông qua.
“Đây là một điều cần chú ý, cho thấy còn có những “nút thắt” trong hoạt động đầu tư công chưa được giải quyết hiệu quả. Từ đó, gây ra nhiều hệ lụy và tạo áp lực bố trí kế hoạch vốn cho các năm sau rất lớn khi các năm trước không giải ngân được. Bởi, số vốn kế hoạch đã bố trí nếu không được giải ngân hết sẽ bị hủy dự toán theo quy định và đòi hỏi các bộ ngành phải bố trí bổ sung bằng kế hoạch vốn năm sau để dự án được triển khai liên tục. Điều này cũng sẽ tác động không chỉ tới công tác lập kế hoạch mà còn tác động tới khả năng hoàn thành dự án, kéo dài thời gian, chậm tiến độ, không phát huy hiệu quả đầu tư, lãng phí cơ hội và nguồn lực....”, lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết.
Nguyên nhân của việc giải ngân chậm thì đã được chỉ ra; trong đó, có cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu như: chất lượng chuẩn bị dự án chưa tốt, còn tình trạng phê duyệt dự án chưa bảo đảm đầy đủ các quy định hiện hành, nhất là quy định về nguồn vốn và khả năng cân đối vốn, phê duyệt dự án mang tính hình thức để giao kế hoạch, khi dự án được quyết định và bố trí vốn mới thực sự tiến hành hoàn tất việc chuẩn bị đầu tư.
Cùng với đó, việc xây dựng kế hoạch chưa tốt, vẫn còn tư duy nhiệm kỳ; xây dựng danh mục dự án, kế hoạch chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu thực tiễn mà từ ý muốn chủ quan ngay khi xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm,... ảnh hưởng tới thực hiện kế hoạch hằng năm.
Theo quy định tại Điều 56 Luật Đầu tư công, việc lập kế hoạch phải dựa trên cơ sở đề xuất của bộ, cơ quan trung ương và địa phương và khả năng đáp ứng của ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, sau khi được giao kế hoạch cho các dự án theo đề xuất của bộ, cơ quan trung ương và địa phương, chính các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương lại trả lại kế hoạch khi xuất hiện vướng mắc, khó khăn trong giải ngân vốn...
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, nguyên nhân quan trọng nữa là việc chấp hành kỷ luật đầu tư công chưa nghiêm, chưa tuân thủ quy định pháp luật về đầu tư công. Luật Đầu tư công không quy định các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương trả lại kế hoạch năm khi không giải ngân được.
Bên cạnh đó, Luật Đầu tư công quy định về thẩm quyền và các trường hợp điều chỉnh kế hoạch (Điều 67). Đối với việc điều chỉnh kế hoạch trung hạn và hằng năm giữa các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định trong trường hợp không thay đổi tổng mức vốn trung hạn và hằng năm đã được Quốc hội quyết định.