Cuộc trao đổi dưới đây giữa phóng viên TTXVN và ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê sẽ làm rõ hơn những thuận lợi cũng như thách thức trong thu hút dòng vốn mới trong tương lai.
Trong 5 tháng đầu năm nay, dòng vốn đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng khá cao. Vậy theo ông, đây có phải là dấu hiệu tốt trong thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam?
Tổng cục Thống kê luôn theo dõi sát nội dung và tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Từ cuối năm 2018 đến nay, dòng vốn đầu tư chuyển dịch từ Trung Quốc và Hong Kong (Trung Quốc) sang Việt Nam đã tăng đột biến. Tổng vốn đầu tư đăng ký từ Hong Kong và Trung Quốc ước đạt 7,1 tỷ USD; trong đó Hong Kong đăng ký đầu tư đạt 5,1 tỷ USD, Trung Quốc đạt 2 tỷ USD, chiếm tới 42,4% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong 5 tháng đầu năm 2019.
Nếu so với dòng vốn FDI từ Trung Quốc và Hong Kong trong cả năm 2017 cũng chỉ là 3,7 tỷ USD; cả năm 2018 là 5,8 tỷ USD cho thấy hiện tượng vốn FDI đăng ký của Hong Kong và Trung Quốc tăng đột biến trong 5 tháng đầu năm 2019.
Tuy nhiên, làn sóng đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam cũng là một thách thức không nhỏ khi làn sóng này sẽ tạo ra cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước để tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh không tốt, lợi ích mang lại từ hiệp định tự do thương mại mà Việt Nam vất vả đàm phán sẽ lại dành cho doanh nghiệp Trung Quốc.
Bên cạnh đó, những dự án đầu tư nhỏ, công nghệ thấp, gây ô nhiễm có thể tràn sang Việt Nam trong khi tiêu chuẩn về môi trường của Việt Nam tương đối thấp so với các nước trên thế giới khiến dòng vốn từ Trung Quốc có thể gây ra vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho nước ta do các doanh nghiệp Trung Quốc thường đầu tư vào các lĩnh vực da giày, dệt may, sản xuất gang thép.
Bên cạnh đó, mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô cũng đứng trước thách thức khi Trung Quốc và các nước trong khu vực, trên thế giới phá giá đồng nội tệ để bảo vệ xuất khẩu hàng hóa sẽ gây áp lực lên tỷ giá của đồng Việt Nam với các ngoại tệ. Điều này gây áp lực không nhỏ đến kiểm soát lạm phát, thị trường chứng khoán, dự trữ ngoại hối và giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Thưa ông, Trung Quốc hiện là thị trường có quan hệ thương mại hai chiều lớn nhất của Việt Nam. Đối với cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, theo ông đâu là cơ hội đối với Việt Nam?
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung tạo cơ hội cho xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam. Những mặt hàng cả Trung Quốc và Việt Nam cùng có thế mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ thì khi Mỹ áp thuế cao đối với hàng hóa Trung Quốc để hạn chế nhập khẩu từ nước này thì đây sẽ là cơ hội để thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam sang Mỹ, góp phần tăng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của nước ta sang thị trường này. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ tăng 14,2% so với cùng kỳ của năm 2017.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đưa đến cho Việt Nam cơ hội thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Trung Quốc do Việt Nam có môi trường kinh doanh thông thoáng, an ninh, chính trị ổn định và các nước đang sắp xếp lại chiến lược đầu tư ra nước ngoài. Các công ty lớn trên thế giới đang hoạt động đầu tư ở Trung Quốc sẽ tìm giải pháp giảm thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hóa các hoạt động đầu tư và sẽ chuyển một số các cơ sở sản xuất hay thương mại sang các nước khác; trong đó có Việt Nam.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung không chỉ tác động đến hai nước mà Việt Nam và các nước khác trên thế giới cũng chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, đặc biệt lưu ý đến nguy hiểm cuộc chiến này sẽ tạo ra cuộc chiến về tiền tệ. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đang có xu hướng phá giá đồng tiền, dẫn đến hệ luỵ là giá cả hàng hoá leo thang, giá dầu biến động. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, toàn cầu hóa, bất kỳ diễn biến kinh tế thế giới và khu vực đều đem lại những thuận lợi và khó khăn cho các nền kinh tế có liên quan.
Trung Quốc hiện là thị trường có quan hệ thương mại hai chiều lớn nhất của Việt Nam. Bên cạnh việc tăng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ, một trong những biện pháp Trung Quốc sử dụng để đối phó với lệnh trừng phạt của Mỹ là phá giá đồng Nhân dân tệ đối với đồng Đô la Mỹ nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu để giảm thâm hụt kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc, đồng thời khuyến khích tiêu dùng trong nước, đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
Việc phá giá đồng nội tệ của Trung Quốc sẽ tạo ra những lợi ích cho Việt Nam trong quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc trên cơ sở giao dịch bằng đồng USD. Cụ thể, với một lượng USD nhất định, Việt Nam sẽ mua được một lượng hàng lớn hơn so với trước khi Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ. Tuy vậy, xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc sẽ đắt hơn.
Thưa ông, bên cạnh những thuận lợi, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung cũng đặt ra các thách thức không hề nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam. Ông có thể phân tích rõ hơn về những thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt?
Trước hết, cạnh tranh thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc gay gắt hơn. Khi Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ tạo nên áp lực cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc vào các thị trường ngoài Mỹ ngày càng gay gắt. Mặt khác, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Trung Quốc sẽ khó khăn hơn vì giá hàng xuất khẩu của Việt Nam trở nên đắt hơn ở thị trường Trung Quốc.
Thêm nữa, khi Mỹ áp thuế cao đối với hàng hóa Trung Quốc xuất sang Mỹ, Trung Quốc sẽ chuyển hướng một phần chiến lược xuất khẩu vào phục vụ thị trường nội địa, tạo áp lực cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. Đồng thời, Trung Quốc có thể chuyển hướng xuất khẩu sang các nước khác; trong đó, có Việt Nam. Ngoài ra, cuộc chiến thương mại do Mỹ phát động với mục tiêu đánh vào ngành sản xuất công nghiệp của Trung Quốc, hiện tại thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc lại chủ yếu là các sản phẩm công nghiệp.
Chính vì vậy nguy cơ thâm hụt cán cân thương mại với Trung Quốc tiếp tục gia tăng, nhập siêu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc 5 tháng đầu năm 2019 vẫn ở vị trí dẫn đầu với ước tính 16,1 tỷ USD, tăng 45,9% so với cùng kỳ 2018.
Việc hàng hóa của Trung Quốc bị áp thuế nhập khẩu cao tại Mỹ tiềm ẩn nguy cơ hàng hóa Trung Quốc được chuyển qua các nước khác; trong đó, có Việt Nam để gian lận xuất xứ khi xuất khẩu sang Mỹ.
Bên cạnh đó, gần đây phía Mỹ có xu hướng tăng cường điều tra chống lẩn tránh thuế với hàng hóa đi qua một nước trung gian để xuất khẩu tới Mỹ. Chính vì vậy, nếu Việt Nam không quản lý được xuất xứ nguồn hàng xuất khẩu thì khả năng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ bị Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh xuất xứ rất dễ xảy ra.
Thưa ông, Việt Nam cần thay đổi những chính sách gì để tận dụng cơ hội trong thu hút đầu tư từ cuộc chiến tranh này?
Trong những năm qua, Chính phủ và các địa phương trong cả nước đã tập trung xây dựng môi trường pháp lý và cụ thể hóa thành các chính sách thu hút vốn đầu tư FDI không phân biệt các nước đến đầu tư tại Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục theo đuổi chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; trong đó, tập trung vào chính sách ưu đãi đầu tư “dựa trên hiệu quả” trong mối tương quan với ưu đãi đầu tư “dựa trên lợi nhuận”, lưu ý đến tác động vào môi trường, sử dụng lao động có tay nghề, tăng cường hệ thống giám sát và đánh giá hiệu quả của các dự án FDI.
Việt Nam cũng ưu tiên các nhà đầu tư có dây chuyền công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến phù hợp với xu hướng sản xuất theo chuỗi liên kết để phát triển công nghiệp phụ trợ trong nước. Đặc biệt, quan tâm đến các ngành Việt Nam đang ưu tiên phát triển; đồng thời, mở cửa một số ngành dịch vụ để tiếp thu công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các địa phương cũng cần đặt trong bối cảnh xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025, phù hợp với tổng thể quy hoạch của địa phương, của vùng và toàn bộ nền kinh tế; phù hợp với lợi thế, điều kiện, trình độ phát triển của từng địa phương trong mối liên kết vùng, đảm bảo hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội - môi trường.
Theo tôi, thu hút nguồn vốn FDI của các địa phương theo hướng chọn lọc các dự án có chất lượng, giá trị gia tăng cao và công nghệ hiện đại, tiên tiến; không để nhà đầu tư tìm đến Việt Nam với mục tiêu tận dụng thị trường lao động giá rẻ, chi phí dịch vụ tiện ích thấp. Đặc biệt, không để Việt Nam là điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm phân tán rủi ro trong chiến tranh thương mại.
Đối với những địa bàn, khu vực nhạy cảm, liên quan đến quốc phòng, an ninh, khu vực biên giới, vùng biển, hải đảo, vùng đặc quyền kinh tế, việc thu hút thu hút đầu tư nước ngoài cần được xem xét chặt chẽ, đặt vấn đề bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia lên hàng đầu...
Xin cám ơn ông!